 |
Đại tá, PGS, TS Bùi Đình Bôn.
|
QĐND - Ít ai biết Đại tá, Phó giáo sư, tiến sĩ Bùi Đình Bôn mồ côi mẹ từ khi mới 9 tháng tuổi. Vào một đêm năm 1950, giặc Pháp nã đại bác vào làng của anh, giết hại bà nội, chú ruột, con chú ruột và mẹ anh. Cậu bé Bôn may mắn được bà ngoại cứu sống từ trong số những tử thi đêm hôm đó.
Hơn 30 năm về trước, khi còn công tác cùng nhau ở Học viện Chính trị quân sự, anh Bôn giảng dạy chính trị, còn tôi làm giáo viên văn hóa. Tôi chuyển công tác về Báo Quân đội nhân dân một thời gian thì anh cũng chuyển về Viện Chiến lược quân sự, sau đó được điều sang làm việc ở Hội đồng Lý luận Trung ương.
Những năm 1980, vào đêm trước của công cuộc đổi mới, tôi đã thấy anh Bôn khác một vài anh em cùng tuổi với anh ở Học viện Chính trị quân sự. Khác ở chỗ: Anh không tự bằng lòng chỉ với việc hoàn thành nhiệm vụ đơn vị giao mà hơn thế, dám nung nấu niềm tin, mài giũa ngòi bút, khai thác nội lực của bản thân, đóng góp cho công tác lý luận tuyên truyền, giáo dục tư tưởng. Bao nhiêu lần tôi đã gặp anh làm bạn với chiếc xe đạp từ thị xã Hà Đông đến với các tòa soạn báo để gửi bài. Và chính tôi cũng đã nhiều lần đến gặp anh, đặt anh viết bài cho Báo Quân đội nhân dân. Lần nào gặp anh, tôi cũng cảm thấy như tan biến đi những mệt mỏi. Có lần tôi còn được anh đãi cơm với canh mồng tơi do chính anh nấu trong một cái bếp tạm bợ thưng bằng bùn rơm trước cửa căn phòng thuộc dãy nhà tập thể của Học viện Chính trị quân sự. Có buổi Báo Quân đội nhân dân họp mặt cộng tác viên, anh đã tới dự. Hôm ấy, trước mặt bao nhiêu cây bút có tên tuổi, anh vẫn tự tin, cởi mở nói về sức viết và những vấn đề đang ấp ủ, nghiền ngẫm của mình khiến nhiều người trầm trồ, nhưng cũng có người bảo anh sớm tự kiêu.
Nhiều giáo viên mới có ý định viết một bài nghiên cứu ở tờ báo này, hay tạp chí nọ đã ngại. Còn bảo họ cho ra đời một cuốn sách thì chắc chắn họ sẽ lắc đầu. Nhưng đối với anh Bôn thì không thế. Trước khi được phong hàm phó giáo sư, anh Bôn đã tặng tôi cuốn sách đầu tay của anh: “Giai cấp công nhân Việt Nam - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, NXB Lao động, Hà Nội, 1997 (đến năm 1999 tập sách được tái bản). Tiếp đó, anh còn tặng tôi tập sách thứ hai của mình là “Một số vấn đề giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Sau này, hễ viết được tác phẩm lý luận nào mới, kể cả các bài viết được công bố trên các báo, tạp chí, anh không quên chia sẻ với tôi. Anh vẫn thường viết theo dáng dấp giáo trình trong nhà trường, đôi khi quá chỉn chu, công thức nhưng đọc vẫn thú vị, vì tác phẩm sau thường khởi sắc hơn tác phẩm trước, với nhiều ý kiến sắc sảo, cách nhìn mới; thái độ dứt khoát, rõ ràng. Điều đó chứng tỏ anh vừa có bản lĩnh vừa rất tâm huyết với nghề.
Nhưng điều đáng nói hơn thế về anh còn là ở chỗ, với ước mơ có vị thế mới trong nghiên cứu khoa học, từ lâu, anh đã dồn tất cả sức lực, trí tuệ của mình vào việc làm chuyển biến một bước về chất trong nghiên cứu khoa học. Trong đó anh coi công việc làm luận án tiến sĩ triết học là một cú huých khởi đầu. Dạo ấy khi làm luận án tiến sĩ triết học, đời sống của anh còn đầy rẫy khó khăn.
Khi biết luận án tiến sĩ triết học của anh được Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước đánh giá xuất sắc và quyết định cho in thành sách, tôi rất mừng. Tên tuổi của anh được ghi vào trong cuốn lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Kiến Quốc quê hương anh thì càng mừng hơn (anh là Phó giáo sư, tiến sĩ đầu tiên của xã Kiến Quốc). Anh xứng là lớp con cháu nối tiếp được truyền thống của cụ Bùi Đình Chiếu có tài cao, học rộng, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ (làm quan tới chức Phó sứ Hàn Lâm viện đồng tri phủ trấn Sơn Nam), ở thôn Cúc Bồ quê anh trước kia. Cả đời anh không ham hố chức vụ, cũng chẳng so đo, tính toàn tìm cách đi “cổng hậu” để cầu lợi riêng, chỉ lặng lẽ gìn giữ sự trong sạch, ngay thẳng, trung thực, hết mình cho khoa học. Để đạt mong muốn ấy, anh đã lao tâm khổ tứ. Là lính cựu nhưng năm 2009, anh vẫn là chiến sĩ thi đua của Hội đồng Lý luận Trung ương.
Trên mỗi chặng đường đã đi qua, ở vị trí nào, Bùi Đình Bôn cũng tỏ ra dày dạn với việc đấu tranh gìn giữ phẩm chất trong sáng, cao đẹp của người quân nhân, dẫu anh biết cuộc đấu tranh đó không phải một sớm một chiều. Để xây dựng được lòng tin với đồng đội, anh luôn tôi luyện đức tính, lời nói đi đôi với việc làm, không lợi dụng tình cảm của đồng đội, không tơ hào một đồng của đơn vị.
Trước đây khi còn công tác ở Tiểu đoàn 7, làm nhiệm vụ trên biên giới, anh đã đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực ở nội bộ đơn vị. Dạo ấy, có cán bộ bị tha hóa, lợi dụng chức quyền để vun vén cho cá nhân nhưng không ai dám lên tiếng đấu tranh. Khi anh Bôn về công tác ở đây, với cương vị chính trị viên, Bí thư đảng ủy Tiểu đoàn 7, Đảng ủy viên Trung đoàn 462, anh cho tổ chức điều tra hiện tượng tiêu cực của một số cá nhân, sau đó tổ chức họp Đảng ủy để bàn biện pháp đấu tranh khắc phục. Công tác đấu tranh chống tiêu cực trong đơn vị có kết quả, mang đến cho đơn vị bầu không khí lành mạnh, quan hệ giữa cán bộ với cán bộ, cán bộ với chiến sĩ đã thay đổi hẳn…
Với quê hương, với cội nguồn, Bùi Đình Bôn không có giây phút nào sao nhãng! Suốt cả tuổi thơ của anh gắn bó với mảnh đất quê hương. Đó là một chuỗi những tháng ngày cơ cực, vất vả, thiếu thốn cùng những nỗi mất mát, nỗi đau tột cùng. Nhưng đó cũng là chuỗi tháng ngày anh gặp bao may mắn. Được sống trong bể yêu thương mênh mông của ông bà ngoại, cậu mợ, chú dì, anh em hàng xóm. Bởi vậy, bấy lâu nay ở xa quê, anh luôn nghĩ phải làm được điều gì đó cho quê hương. Như 8 người con của 8 gia đình họ hàng, làng xóm (năm xưa các gia đình này đã cưu mang, giúp đỡ anh thuở hàn vi), đã được anh giúp có việc làm phục vụ trong quân đội, có người đã được phong quân hàm trung tá.
Chưa lúc nào tôi cảm thấy anh Bôn tỏ ra mệt mỏi trên con đường đi tới chân trời của mình. Nếu ngoảnh lại phía sau, hẳn anh Bôn cảm thấy cuộc đời hôm qua và cuộc đời hôm nay của anh vẫn là một dòng chảy? Vẫn một ý chí sắt đá ấy! Vẫn một trời nhiệt huyết ấy! Vẫn một khát vọng sống xứng đáng ấy!
Bài và ảnh: Lã Bá Tình