QĐND - Nhắc đến Đoàn tàu không số huyền thoại, chắc chắn không thể không nhắc đến Tàu 235 và trận đánh bi tráng dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phan Vinh chỉ huy ngày 1-3-1968 tại bến Hòn Hèo (Khánh Hòa). Chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết của Cựu chiến binh Lê Duy Mai, một trong 6 thủy thủ còn sống sau trận đánh đã đi vào lịch sử nói trên.

Tàu 235 là tàu vận tải có tốc độ cao, đóng mới tại Trung Quốc. Tàu được lắp nhiều thiết bị tương đối hiện đại bảo đảm khả năng hành trình dài ngày trên biển và khả năng chiến đấu tự vệ độc lập.

Mùa hè năm 1966, tôi và một số đồng chí được chỉ huy đơn vị điều động đi nhận tàu tại Trung Quốc với phiên hiệu 235 do Nguyễn Phan Vinh làm Thuyền trưởng. Cùng nhận tàu chuyến này còn có tàu 246 do đồng chí Võ Hán làm Thuyền trưởng.

Sau một thời gian huấn luyện tại cảng Di Linh (Hải Nam, Trung Quốc), đơn vị tàu được bổ sung biên chế cho các ngành hàng hải, cơ điện, súng pháo, thông tin liên lạc... Từng thủy thủ, theo chức trách được phân công, đêm ngày thi đua học tập chuyên môn và chính trị, đồng thời luyện tập các phương án tác chiến phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới.

Cựu chiến binh Lê Duy Mai và cháu nội. Ảnh: Ái Thi

Mùa hè năm 1967, chúng tôi nhận được lệnh đưa tàu từ Hải Nam (Trung Quốc) về nước. Sau một thời gian làm công tác chuẩn bị, nắm tình hình và lựa chọn thời cơ, đúng Tết Mậu Thân 1968, lợi dụng thời tiết xấu và tình hình địch lơ là, Thuyền trưởng Phan Vinh lệnh cho 4 máy chính trên tàu nổ máy, bất ngờ đưa tàu tiếp cận bờ. Tuy nhiên, tàu chuyển hướng vào bờ được 15 phút thì cấp trên lệnh cho tàu quay về Hải Nam (Trung Quốc) đợi lệnh. Cuối tháng 2-1968, chúng tôi nhận lệnh tiếp tục hành trình vận chuyển hàng vào bến Hòn Hèo (Khánh Hòa). Trong suốt hành trình ngoài hải phận quốc tế, tàu địch và máy bay địch luôn thay phiên bám đuổi. Biết địch bám chặt, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cho tàu chuyển hướng đánh lừa địch, khi thấy tàu và máy bay địch không “bám đuôi” nữa, chúng tôi mới chuyển hướng hành trình vào bến.

Ngày 1-3-1968, tàu chúng tôi vào đúng bến Hòn Hèo, phát tín hiệu nhiều lần nhưng trên bờ không có tín hiệu đáp lại. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh quyết định neo tàu và thực hiện phương án thả hàng. Hàng vừa thả xong thì chúng tôi cũng phát hiện tàu địch đã bao vây tứ phía. Trên trời, máy bay địch gọi loa chiêu hồi. Xác định tàu bị lộ, trời cũng đã sáng, khó thoát ra được, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh ra lệnh vừa nhổ neo, vừa quyết chiến với tàu địch. Chúng tôi dùng ĐKZ và súng máy 14,5mm bắn chìm và làm bị thương một số tàu địch. Thấy tàu Việt Cộng hành động quyết liệt, các tàu địch còn lại không dám lại gần. Đây là thời cơ để chúng tôi thực hiện phương án 3, hủy nổ tàu để bảo đảm bí mật về “đường mòn trên biển”.

Qua những trận đánh ban đầu, một số đồng chí trên tàu đã bị thương. Tôi nhận lệnh mở van khí ép bơm xuồng cao su để số anh em bị thương rời tàu vào bờ. Ở lại tàu lúc đó, theo trí nhớ của tôi còn Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và các đồng chí: Hàng hải, điều khiển 2 máy trước, điều khiển hai máy sau, 2 đồng chí pháo thủ súng máy 14,5mm, đồng chí pháo thủ ĐKZ và tôi. Chúng tôi tiếp tục chiến đấu.

Mệnh lệnh cuối cùng mà tôi nghe được ở Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh là “Đánh bộc phá tại tàu”. Theo phương án đã phân công, tôi tuột cầu thang, xuống khoang máy sau, gặp anh Trần Lộc bị thương, đầu đang quấn băng trắng toát. Tôi nói với anh Lộc: “Để tôi thay anh đánh bộc phá khoang máy sau và hầm lái”. Người đánh bộc phá khoang máy trước là anh Vũ Long An. Người đánh bộc phá khoang mũi tàu là anh Hà Minh Thật. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh đến từng vị trí kiểm tra và động viên từng người. Trong ý nghĩ của chúng tôi lúc đó, chỉ có một quyết tâm là làm sao để tàu nổ tan vào lòng biển, không để lại dấu vết gì để địch có thể dò ra manh mối của “đường mòn trên biển”.

“Đánh bộc phá tại tàu” cũng có nghĩa phải xác định chắc chắn sẽ hy sinh tại tàu cùng khối thuốc nổ. Chúng tôi đã sẵn sàng. Đèn tín hiệu điểm hỏa bật sáng, chúng tôi kết hợp thực hành 3 phương pháp: Cắt nối dây cháy chậm truyền nổ vào kíp số 8, dùng kìm bóp kíp hóa học và gạt kim đồng hồ về vị trí hẹn giờ phù hợp với phương án, bảo đảm việc phá hủy tàu được triệt để. Tôi vừa điểm hỏa xong thì nghe Thuyền trưởng Vinh hỏi, giọng rất điềm tĩnh: “Chắc ăn chưa?”. Tôi trả lời: “Chắc” rồi cùng mọi người ôm vũ khí cá nhân nhảy xuống biển, ráng sức bơi vào bờ. Mọi việc thật đúng với tính toán. Chúng tôi vừa vào sát bờ thì nghe một tiếng nổ lớn, cột lửa bốc cao từ phía con tàu sáng đỏ cả một vùng. Những chiếc phao cứu sinh trên tàu bay cả về phía chúng tôi nằm. Một phần mũi tàu bị hất tung về phía chân núi (Hiện nay, nơi đây, Quân chủng Hải quân cho xây dựng Nhà bia tưởng niệm 14 cán bộ, chiến sĩ của Tàu 235 hy sinh hôm đó). Có thể nói, nhiệm vụ hủy tàu đã được chúng tôi hoàn thành tốt.

Lên bờ, chúng tôi chia làm 2 nhóm ẩn nấp. Một nhóm do Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy, hôm sau gặp địch đã tiến hành trận chiến đấu quyết tử và bi tráng mà báo chí của cả địch và ta đã thuật lại. Trận đánh đó đã trở thành huyền thoại, cùng với con Tàu 235 đi vào lịch sử của Quân chủng Hải quân như một thiên anh hùng ca về lòng dũng cảm. Còn nhóm chúng tôi, do Thuyền phó Đoàn Văn Nhi chỉ huy gồm: Mai Văn Khung, Vũ Long An, Hà Minh Thật, Lâm Quang Tuyến, Nguyễn Phong và tôi. Lúc đó, anh Nhi đã bị thương nặng nên sau khoảng 7, 8 ngày lẩn tránh các cuộc truy lùng của địch, anh Mai Văn Khung đi tìm nước cho anh Nhi uống thì bị địch phát hiện. Chúng tôi nổ súng quyết chiến với quân địch. Anh Nhi hy sinh tại chỗ còn anh Khung sau đó bị thương. Gần đây tôi được biết, anh Khung bị địch bắt rồi đày đi Phú Quốc (sự trở về của người lính Mai Văn Khung khi rơi vào tay quân thù mới đây đã được phóng viên Báo Quân đội nhân dân phát hiện và xin được kể với bạn đọc trong bài viết khác - PV).

Còn 5 anh em chúng tôi tiếp tục dìu dắt, động viên nhau chịu đựng đói khát, vừa lẩn tránh địch vừa tìm cách tiếp cận căn cứ của Quân giải phóng. Đến ngày thứ 13, sức cùng, lực kiệt, ai cũng thương tích đầy mình; cái đói, cái khát ập đến khiến chúng tôi gần như tắt hết hy vọng trở về. Đêm hôm đó, lợi dụng ánh trăng mờ và lá rừng che khuất, chúng tôi tiếp tục bò đi sát bờ biển. Bỗng chúng tôi phát hiện bóng người lội bì bõm dưới nước. Tôi và Vũ Long An bí mật tiếp cận và khống chế đối tượng. Thật may, đó là đồng chí du kích địa phương đóng vai dân chài đi tìm đón chúng tôi. Hôm đó, chúng tôi được du kích đưa vào căn cứ tập kết, đãi món cháo gà rừng và được bà con chăm sóc, điều trị tận tình nên cả 5 người đều nhanh chóng hồi phục sức khỏe.

Từ cõi chết trở về, chúng tôi tiếp tục đi bộ 6 tháng liên tục vượt dãy Trường Sơn hùng vĩ trở về Lữ đoàn 125, nhận tàu mới để tiếp tục chiến đấu.

Mới đây, chúng tôi có dịp trở lại Hòn Hèo để nói lời cảm ơn bà con nhân dân xã Ninh Vân (Ninh Tịnh, Khánh Hòa), những người đã cưu mang, che chở và cứu sống chúng tôi. Chúng tôi cũng được thắp hương lên tấm bia tưởng niệm 14 người đồng đội đã hy sinh, trong đó có Thuyền trưởng, Anh hùng Nguyễn Phan Vinh. Nhớ đến đây, tôi không thể nào quên mệnh lệnh cuối cùng của anh: “Đánh bộc phá tại tàu” cũng như câu nói điềm tĩnh, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng: “Chắc ăn chưa?”. Tôi cứ mong: “Trong những bộ phim và bài báo viết về sự kiện bi tráng của con Tàu 235 năm 1968, nên có câu nói đó của Nguyễn Phan Vinh. Một câu nói tưởng chừng giản dị nhưng hàm chứa phẩm chất của người anh hùng cũng như tâm thế bình tĩnh đến kỳ lạ, sẵn sàng đón nhận sự hy sinh của người lính Đoàn tàu không số”.

Lê Duy Mai (Cựu chiến binh Đoàn tàu không số)