QĐND - Thực hiện quyết tâm đánh bại về cơ bản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công chiến lược trên các hướng: Miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị Thiên (trong đó Trị Thiên là hướng chiến lược chủ yếu), nhằm tiêu diệt một bộ phận lớn lực lượng quân sự của địch, mở rộng vùng giải phóng, tạo áp lực buộc địch phải chấp nhận một giải pháp chính trị theo điều kiện của ta tại Hội nghị Pa-ri.

Quảng Trị được Mỹ và Quân đội Sài Gòn xây dựng thành tuyến phòng thủ vững chắc hòng ngăn chặn ta đưa lực lượng, VKTB chi viện cho chiến trường miền Nam. Tại đây, địch tập trung 2 sư đoàn bộ binh tăng cường, cùng 4 tiểu đoàn độc lập và 94 đại đội bảo an, 302 trung đội dân vệ, 5.100 cảnh sát, 184 xe tăng... được bố trí phòng thủ trên 2 hướng Quảng Trị và Thừa Thiên; lấy Quảng Trị là khu vực phòng thủ trọng điểm. Về pháo binh, địch sử dụng 328 khẩu pháo các loại, chiếm 25% tổng số pháo toàn miền Nam và 41% số pháo vùng chiến thuật 1. Riêng ở Quảng Trị chúng sử dụng tới 120 khẩu pháo lớn, bố trí thành những căn cứ hỏa lực hỗn hợp, bao gồm pháo 105mm, 155mm và 175mm chi viện cho 5 khu vực phòng thủ. Theo cách này, địch tham vọng có thể liên kết được hỏa lực với nhau; kết hợp với pháo hạm và không quân để chi viện hiệu quả hỏa lực cho lực lượng giữ vững khu vực, tuyến phòng thủ theo ý định.

Pháo binh Sư đoàn 304 tham gia Chiến dịch Quảng Trị. Ảnh tư liệu.

Căn cứ vào nhiệm vụ và tình hình cụ thể trên chiến trường, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Chiến dịch Quảng Trị hạ quyết tâm trong khoảng từ 20 đến 25 ngày, ta tiến công tiêu diệt cho được từ 4 đến 5 trung đoàn địch, thực hiện nổi dậy giải phóng tỉnh Quảng Trị, sau đó tiếp tục phát triển vào hướng Thừa Thiên. Thực hiện quyết tâm này, trên hướng Quảng Trị ta đã tập trung 3 sư đoàn cơ động 304, 308, 324, 2 trung đoàn độc lập và 4 tiểu đoàn độc lập khác, cùng với 6 tiểu đoàn Đặc công của Bộ và một số phân đội binh chủng chiến đấu. Đối với pháo binh, chiến dịch đã sử dụng 4 trung đoàn pháo xe kéo: 38, 164, 368, 45 và 2 trung đoàn pháo 68 và 58 trong biên chế của Sư đoàn 304, 308; một trung đoàn pháo mang vác 84 và 2 đại đội B72 tên lửa chống tăng, cùng một số tiểu đoàn, đại đội pháo binh độc lập. Trên hướng Thừa Thiên, chiến dịch sử dụng một tiểu đoàn pháo Đ74, một tiểu đoàn pháo cối 120mm và một đại đội B72.

Trên cơ sở quyết tâm chiến dịch, lực lượng pháo binh tham gia chiến dịch hình thành theo 3 cấp hoàn chỉnh: Cấp chiến dịch, cấp chiến thuật và pháo binh đi cùng. Lực lượng pháo binh chiến dịch gồm các trung đoàn pháo binh tầm xa và một số trung đoàn pháo phản lực cỡ lớn, tổ chức thành 4 cụm pháo, được bố trí trên các hướng tiến công và vu hồi, thọc sâu của chiến dịch, tập trung trên hướng chủ yếu. Nhiệm vụ chủ yếu là đánh pháo binh địch hoặc chế áp các mục tiêu bên trong chiều sâu phòng ngự của địch. Lực lượng pháo binh cấp chiến thuật gồm các trung đoàn pháo binh trong biên chế các sư đoàn bộ binh hoặc lực lượng pháo binh do chiến dịch tăng cường, tổ chức thành 3 cụm pháo và một số tiểu đoàn độc lập để trực tiếp chi viện cho các sư đoàn 308, 304, 324 và Tiểu đoàn bộ binh 27. Ở một số nơi địa hình phức tạp, chiến dịch đã sử dụng các phân đội pháo mang vác cỡ lớn như ĐKB, H12, BM14 hoặc cối 120mm, 160mm cùng với tên lửa chống tăng B72. Đối với lực lượng pháo binh đi cùng, luôn bám sát đội hình bộ binh trong các tình huống. Lực lượng pháo binh dự bị do Trung đoàn 45 đảm nhiệm, sẵn sàng tăng cường hỏa lực cho các hướng.

Việc phân chia pháo binh theo 3 cấp đã bảo đảm cho từng cấp có hỏa lực pháo binh nắm trong tay để nâng cao khả năng độc lập tác chiến và bảo đảm cho chiến dịch sử dụng pháo binh tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu, thời cơ quan trọng, phát huy được sở trường, tính năng của các thành phần, lực lượng pháo binh, súng cối tham gia chiến dịch; vừa để tăng tính phối hợp, hỗ trợ, bổ sung cho nhau chặt chẽ trong mọi tình huống và có khả năng chuyển tiếp nhiệm vụ hỏa lực một cách nhịp nhàng, chi viện đúng thời cơ, duy trì sức mạnh và hiệu quả hỏa lực chi viện cho các hoạt động tác chiến liên tục của binh chủng hợp thành theo một kế hoạch thống nhất, không để rơi vào thế bị động trong mọi tình huống diễn biến của chiến dịch. Trên cơ sở thế trận của binh chủng hợp thành và nhiệm vụ chiến dịch giao, lực lượng pháo binh ta đã thiết lập được thế trận phù hợp ngay từ đầu chiến dịch. Thế trận pháo binh vừa bảo đảm tính liên hoàn, vững chắc, hiểm hóc có trọng điểm, tạo ra hệ thống hỏa lực đa tầm, đa hướng; có thể khống chế được toàn bộ phạm vi chiến dịch, vừa có thể chi viện cho bộ binh, xe tăng tiến công địch trong từng khu vực và chi viện hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy. Một trong những phát triển quan trọng về nghệ thuật sử dụng pháo binh là ta đã biết phát huy sức mạnh của các đòn hỏa lực đánh vào cái mạnh, phá vỡ tuyến (khu vực) phòng thủ mạnh, đồng bộ và hoàn chỉnh của địch. Lực lượng pháo binh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của chiến dịch tiến công - phòng ngự Quảng Trị năm 1972.

------------------

Thiếu tướng Nguyễn Văn Côn -Tư lệnh Binh chủng Pháo binh