QĐND - Thắng lợi giải phóng toàn tỉnh, trong đó có Thành cổ Quảng Trị (1972) đã tạo ra cục diện mới trên chiến trường Trị-Thiên, làm thay đổi một bước so sánh lực lượng có lợi cho ta. Để giữ vững thành quả cách mạng, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Bộ tư lệnh chiến dịch phải kiên quyết chiến đấu giữ vững vùng giải phóng, trong đó có Thành cổ Quảng Trị.

Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương và căn cứ vào thực tế chiến trường, Bộ tư lệnh chiến dịch tổ chức lực lượng bảo vệ Thành cổ gồm: Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 320B, hai tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị. Tiếp đó, ta tăng cường thêm Trung đoàn 95 (Sư đoàn 325), Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320B), Đại đội công binh thuộc Trung đoàn 299. Ở bên ngoài, Bộ tư lệnh chiến dịch sử dụng các sư đoàn: 308, 304, 325, 320B (thiếu) trấn giữ trên các hướng tây, tây nam và đông, tạo thành thế trận vững chắc bảo vệ, hỗ trợ đắc lực cho các đơn vị bảo vệ Thành cổ.

Cuộc chiến đấu của bộ đội ta bảo vệ Thành cổ diễn ra rất gay go, quyết liệt. Địch tập trung lực lượng chiếm lại, ta quyết tâm ngăn chặn địch, kiên cường bám trận địa chiến đấu, giữ vững Thành cổ. Thế trận chiến đấu giữa ta và địch giằng co. Song trước việc địch được chi viện hỏa lực tối đa ồ ạt tiến vào đánh chiếm Thành cổ, ta quyết định rút toàn bộ lực lượng trong Thành cổ ra vùng hậu cứ củng cố, bổ sung lực lượng và nhận nhiệm vụ mới.

Quá trình tổ chức và sử dụng lực lượng chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 1972 có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây là giai đoạn kết nối quá trình chiến đấu kiên cường, anh dũng mở đầu với thắng lợi của Chiến dịch tiến công Trị-Thiên (từ 30-3 đến 27-6-1972) với Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị (từ 1-9-1972 đến 31-1-1973), kéo dài 308 ngày đêm, trong đó có 81 ngày đêm giữ Thành cổ, kể từ khi địch phản công (28-6-1972) đến lúc ta thực hành rút khỏi Thành cổ (16-9-1972).

Trận đánh trước Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Ảnh: Đoàn Công Tính.

Điểm nổi bật trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ, cũng như thị xã Quảng Trị là, ta đã tổ chức lực lượng lúc cao nhất hơn 10 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo cao xạ và súng máy phòng không, 3 đại đội xe tăng, thiết giáp bố trí trấn giữ ở các vị trí trọng yếu; đồng thời sử dụng 3 trung đoàn và một tiểu đoàn pháo bố trí ở tả ngạn sông Thạch Hãn chi viện hiệu quả. Để phối hợp với các đơn vị bảo vệ Thành cổ và thị xã, ta còn sử dụng lần lượt nhiều sư đoàn bộ binh, nhiều đơn vị binh chủng tổ chức các đợt phản kích đánh vào bên sườn, đánh phía sau lưng địch. Bộ đội ta đã bẻ gãy nhiều đợt tiến công của địch, giữ vững Thành cổ 81 ngày đêm, tạo điều kiện cho ta có thời gian củng cố thế trận phòng giữ, bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị.

Trong điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch về quân số, vũ khí trang bị và thế trận địch hơn ta, ta chưa thể dàn trận đánh trực diện với địch, thì việc tìm ra cách đánh mới là tổ chức và sử dụng lực lượng tác chiến bảo vệ Thành cổ cũng như thị xã Quảng Trị là một quyết định sáng suốt, táo bạo chưa từng có tiền lệ kể từ khi tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Thành công nổi bật nữa là ta khẩn trương tổ chức và sử dụng một bộ phận lực lượng thích hợp củng cố hệ thống trận địa phòng thủ. Dựa vào công sự trận địa, bộ đội ta vừa đánh chặn địch ở phía trước, vừa chủ động sử dụng lực lượng tập kích, phục kích, luồn sâu đánh vào phía sau, bên sườn quân địch với quy mô khác nhau. Đồng thời, ta tổ chức, sử dụng lực lượng linh hoạt, sáng tạo đánh ban ngày và phát huy sở trường đánh đêm; kết hợp giữa các hoạt động tác chiến của bộ phận lực lượng nhỏ với các hoạt động tác chiến tập trung của lực lượng lớn để tiêu diệt, đẩy lùi các đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa của ta.

Có thể nói, trong điều kiện so sánh lực lượng và binh khí kỹ thuật rất chênh lệch và các điều kiện khác vô cùng khó khăn, thì việc giữ được Thành cổ 81 ngày đêm đã tăng thời gian quyết tái chiếm của địch lên 8 lần so với thời hạn ban đầu của chúng, làm thất bại những cố gắng cao nhất của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong âm mưu tái chiếm toàn tỉnh Quảng Trị, góp phần phục vụ tích cực yêu cầu của cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao trong thời điểm có tính chất quyết định giữa ta và Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri (27-1-1973), rút hết quân Mỹ và quân đồng minh Mỹ ra khỏi miền Nam, tạo ra thế và lực mới cho quân và dân ta tiến tới mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Đại tá, TS Dương Đình Lập