QĐND - Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1972, cùng với các hướng chiến trường khác, ngày 30-3-1972, Bộ Tổng tư lệnh mở chiến dịch tiến công Trị-Thiên. Đây là chiến dịch quy mô lớn, tác chiến hiệp đồng binh chủng nhằm tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới.
Chiến dịch chia làm ba đợt. Trong chiến dịch này, ta đồng loạt tiến công, đập vỡ tuyến phòng ngự “vỏ cứng” vòng ngoài của địch, giải phóng hai huyện Gio Linh và Cam Lộ; tiêu diệt tập đoàn địch phòng ngự ở Đông Hà-Ái Tử-La Vang, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và phát triển tiến công vào Nam sông Mỹ Chánh, Đồng Lâm. Đến ngày 28-6-1972, phát hiện địch chuẩn bị phản công lớn, so sánh tương quan lực lượng không có lợi, Bộ tư lệnh chủ trương kết thúc chiến dịch tiến công chuyển sang chuẩn bị đánh địch lấn chiếm vùng mới giải phóng. Thắng lợi của chiến dịch đã chứng minh bước phát triển vượt bậc về mọi mặt của lực lượng vũ trang ta cả về tổ chức biên chế, trang bị và trình độ, khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.
 |
Quân giải phóng đánh chiếm căn cứ Đầu Mầu ngày 31-3-1972. Ảnh tư liệu. |
Chiến dịch Trị-Thiên năm 1972 đã vận dụng phương thức tác chiến hiệp đồng binh chủng của bộ đội chủ lực tương đối hiện đại để tiêu diệt những tập đoàn phòng ngự kiên cố của địch có chính diện rộng và chiều sâu lớn. Mở màn chiến dịch, ta thực hành đòn tập kích hỏa lực bất ngờ của 150 khẩu pháo lớn, hơn 90 khẩu súng cối và hỏa tiễn, bắn hơn 15.000 viên đạn pháo vào toàn bộ các căn cứ hỏa lực, sở chỉ huy và cứ điểm địch ở nam, bắc Đường số 9, đúng vào lúc chúng đang tổ chức thay quân phòng ngự, nên đạt hiệu quả sát thương, tiêu diệt lớn. Hỏa lực phòng không tích cực yểm trợ, hạn chế có hiệu quả hoạt động bắn phá của không quân địch. Hỏa lực pháo binh sử dụng tập trung, thống nhất, theo kế hoạch đã chi viện đắc lực cho bộ binh, xe tăng thực hành tiến công, đột phá vào các mục tiêu chủ yếu trong hệ thống phòng thủ vòng ngoài và nhanh chóng phát triển vào chiều sâu phòng ngự chiến dịch của địch. Trên từng hướng, mũi tiến công, ta đã tập trung lực lượng, phương tiện, thực hành đột phá, kết hợp với thọc sâu, vu hồi, bao vây, chia cắt; vừa tiêu diệt sinh lực, phương tiện, vừa phá thế phòng thủ, làm cho địch lâm vào thế lúng túng, bị động và tan vỡ nhanh hơn so với dự kiến. Nhờ đó, chỉ sau 5 ngày tiến công (từ ngày 30-3 đến ngày 4-4), ta đã đập tan tuyến phòng thủ “vỏ cứng” vững chắc vòng ngoài của địch, giải phóng hoàn toàn hai huyện Gio Linh và Cam Lộ.
Trình độ tổ chức, chỉ huy và khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng trong thực hành chiến dịch đã phát triển đạt đến trình độ khá hoàn thiện. Bộ tư lệnh chiến dịch đã hiệp đồng chặt chẽ các thành phần, lực lượng tham gia, tạo sức mạnh ưu thế hơn địch vào địa điểm và thời cơ có lợi để đè bẹp sự kháng cự của địch. Thực tế trên hướng chiến trường Trị-Thiên, từ lâu địch đã xây dựng được tuyến phòng thủ kiên cố vững chắc ở nam-bắc Đường số 9, với nhiều căn cứ trung đoàn, lữ đoàn bộ binh và các tiểu đoàn binh chủng. Khi ta điều chỉnh, lựa chọn và quyết định chuyển thành hướng chủ yếu của cuộc tiến công chiến lược, Bộ tổng tư lệnh và Bộ tư lệnh chiến dịch đã tập trung nỗ lực cao nhất cả về lực lượng, phương tiện, tổ chức chỉ huy và bảo đảm các mặt để có thể tác chiến được liên tục, dài ngày. Trong khoảng thời gian ngắn, ta vừa xây dựng kế hoạch tác chiến, vừa điều chỉnh, cơ động lực lượng, tổ chức thiết bị chiến trường và vận chuyển 16.020 tấn vật chất, gần đạt yêu cầu đề ra cho thời kỳ đầu của chiến dịch. Chiến dịch đã tổ chức lực lượng tiến công đồng thời trên 4 hướng. Trong đó, hướng Tây Bắc và Tây là hướng tiến công chủ yếu, hướng Bắc là hướng thứ yếu, hướng Đông là hướng vu hồi thọc sâu, hướng Nam là hướng chia cắt; khu vực nổi dậy là các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hải Lăng, Triệu Phong. Trên hướng chủ yếu, thứ yếu và hướng chia cắt ta đã đồng loạt tiến công, đột phá vào hệ thống phòng thủ của địch làm cho địch bị đánh cả trước mặt, bên hông và sau lưng; đồng thời, lực lượng vu hồi thọc sâu, đặc công (hướng Đông) đã tiến công vào các vị trí của địch, phối hợp và hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ.
Nghi binh, đánh lừa, làm cho địch hoàn toàn bất ngờ về cường độ, hướng tiến công chủ yếu là thành công lớn, yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh tổng hợp cho chiến dịch và điều kiện thuận lợi để phát huy tối đa khả năng của các lực lượng trong tác chiến hiệp đồng binh chủng. Chọn hướng Tây Bắc và Tây làm hướng chủ yếu là ta đánh vào nơi địch phòng thủ mạnh, nhưng lại có điều kiện triển khai lực lượng, binh khí kỹ thuật lớn, phù hợp với chiến dịch tác chiến hiệp đồng binh chủng. Trên hướng Bắc (thứ yếu), ta sử dụng một bộ phận lực lượng của Sư đoàn 308 hoạt động, đủ cho địch phát hiện thấy sự có mặt của sư đoàn, làm cho chúng lầm tưởng là hướng tiến công chủ yếu của ta, nên đã tổ chức thay quân phòng ngự, đưa Trung đoàn 2 thiện chiến từ hướng Tây Bắc về thay cho Trung đoàn 56 (mới thành lập) ở hướng Bắc; do đó, hướng chủ yếu phát triển tương đối thuận lợi, sau 4 ngày tiến công, Trung đoàn 56 đã bị ta tiêu diệt.
Sử dụng phù hợp với khả năng, sở trường của từng thành phần, lực lượng tham gia chiến dịch cũng là một trong những nét nổi bật, yếu tố tạo nên sức mạnh của tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Trước khi bước vào chiến dịch, các đơn vị chủ lực được củng cố tổ chức biên chế, trang bị tương đối hiện đại. Trong thực hành tác chiến, chiến dịch sử dụng các trung đoàn, sư đoàn bộ binh có thiết giáp và pháo binh chi viện tiến công đột phá trận địa và ngăn chặn, đánh bại địch phản kích; đặc công được sử dụng luồn sâu, đánh hiểm vào căn cứ, kho tàng, sân bay, bến cảng sâu trong hậu phương địch. Sử dụng xe tăng thiết giáp tập trung vào các trận đánh then chốt, quyết định, thành lực lượng đột kích mạnh, thọc sâu, vu hồi nhanh trong tiến công. Tổ chức lực lượng pháo binh hình thành ba cấp: Pháo binh chiến dịch, pháo binh sư đoàn và pháo đi cùng, nên đã kịp thời chi viện cho bộ binh, xe tăng tiến công đột phá; kiềm chế, ngăn chặn và làm tê liệt hệ thống pháo binh của địch; ta đã sử dụng kết hợp với vũ khí chống tăng của bộ binh tạo thành hệ thống hỏa lực đánh tăng hoàn chỉnh, tiêu diệt từng cụm xe tăng thiết giáp và đập vỡ vành đai “vỏ thép cứng” vòng ngoài khi địch co cụm ở căn cứ Đông Hà.
Những bài học kinh nghiệm trong chiến dịch tiến công Trị-Thiên vẫn còn có giá trị lớn, cần phải tiếp tục nghiên cứu vận dụng sáng tạo trong tác chiến khu vực phòng thủ, thế trận chiến tranh nhân dân, nhất là phát huy tối đa sức mạnh, khả năng, sở trường của từng thành phần lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp cho chiến dịch.
Đại tá, Tiến sĩ HOÀNG VĂN QUÝ