QĐND - Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp huy động lực lượng bắt đầu mở cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc, nhằm tiêu diệt các cơ quan đầu não của ta. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của thực dân Pháp” và đề ra phương hướng hành động phải đánh địch khắp mọi nơi. Tháng 10-1947, Bộ Tổng chỉ huy quyết định mở chiến dịch phản công nhằm đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của quân Pháp lên Việt Bắc, bảo vệ căn cứ địa cách mạng và cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 7 trung đoàn bộ binh của Bộ và các Khu 1, 11 12, cùng 30 đại đội độc lập và dân quân, du kích các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên.

Chiến dịch đã diễn ra rất quyết liệt giữa ta và địch, với hai đợt chiến đấu liên tục. Đợt 1 từ ngày 7-10 đến 20-11; đợt 2 từ ngày 21-11 đến 20-12-1947. Thực tiễn chiến dịch cho thấy cuộc đấu trí, đấu lực diễn ra hết sức căng thẳng giữa ta và địch, trong đó đối với ta nổi lên một số nét đặc sắc về nghệ thuật chiến dịch:

Cán bộ Bộ chỉ huy chiến dịch thị sát tình hình trong Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947. Ảnh tư liệu.

Trước hết, ta xác định hướng tiến công kịp thời, đúng đắn. Từ phân tích tình hình, ta nhận thấy, điểm mạnh của địch là ưu thế về máy bay, pháo binh, cơ giới, nhưng chúng không thể phát huy sức mạnh hỏa lực trên chiến trường rừng núi, nhất là trong điều kiện thời tiết mùa đông. Hơn nữa, địch chủ quan mở cuộc hành binh lớn bằng hai cánh quân cách nhau quá xa. Chúng phải dùng các trục đường bộ, đường sông để tiếp tế, vận chuyển lương thực. Trên cơ sở phán đoán âm mưu, hướng tiến công, phân tích đánh giá điểm mạnh, yếu của địch, ta xác định các hướng tiến công chiến dịch. Cụ thể, hướng Tây- sông Lô (đánh địch trên dòng sông Lô và trên đường bộ, chặn địch tăng viện); hướng Đông- đường số 3 (đánh địch trên đường Bắc Cạn-Cao Bằng ); đường số 4 (đánh địch trên đường Lạng Sơn-Cao Bằng).

Ở Mặt trận Sông Lô và đường số 2, Trung đoàn chủ lực của Khu 10 và một tiểu đoàn chủ lực của Bộ, có nhiệm vụ đánh địch trên sông Lô, đoạn từ Việt Trì đến Tuyên Quang; Trung đoàn 147 và 2 tiểu đoàn chủ lực Bộ bố trí ở phía nam đường liên tỉnh Tuyên Quang-Thái Nguyên. Ở Mặt trận Đường số 3, Trung đoàn 121 để lại tiểu đoàn 25 làm nhiệm vụ cơ động, lực lượng còn lại phân tán thành 7 đại đội, hoạt động trên các địa bàn trọng điểm Thái Nguyên, Vĩnh Yên và Phúc Yên; đồng thời sử dụng các đại đội khác bố trí ở các huyện Đông Anh, Đa Phúc, Kim Anh, Yên Lãng, Phú Bình, Võ Nhai, Chợ Chu, Đại Từ, Đồng Hỷ. Trung đoàn 72 để lại Tiểu đoàn 25, lực lượng còn lại phân tán thành 5 đại đội bố trí ở Chợ Đồng, Chợ Rã, Ngân Sơn. Trung đoàn 165 được tăng cường Tiểu đoàn 11 bố trí ở các huyên Chợ Rã, Chợ Đồn và thị xã Bắc Kạn. Trên Mặt trận đường số 4, Trung đoàn 74 để lại Tiểu đoàn 73 cơ động, còn lại 6 đại đội được bố trí ở các huyện Nguyên Bình, Sóc Giang, Hòa An, Quảng Nguyên, Phục Hòa, Đông Khê. Trung đoàn 11 để lại Tiểu đoàn 374 làm nhiệm vụ cơ động, hai tiểu đoàn còn lại phân thành 6 đại đội về hoạt động ở các huyện Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Điềm He, Lộc Bình và Đồng Mỏ. Với tổng số khoảng 20 tiểu đoàn bộ binh và pháo binh tập trung triển khai lực lượng, hình thành các mặt trận trên ba hướng chiến dịch, không những ta tránh được chỗ mạnh của địch mà còn từng bước vô hiệu hóa, trước hết là hướng Tây (Sông Lô-đường số 2), tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm, phá thế hợp vây tiến công Việt Bắc bằng hai gọng kìm của địch.

Cùng với việc xác định hướng, mục tiêu tiến công, tổ chức lực lượng tạo thế trận phù hợp, ta vận dụng cách đánh sáng tạo, linh hoạt. Sau khi xác định mục tiêu tác chiến chủ yếu là quân địch vận động trên đường bộ và trên sông, Bộ Tổng chỉ huy đã quyết định phân tán chủ lực của Bộ và các Khu 1, 10, 12 thành 18 tiểu đoàn, tác chiến trên ba mặt trận và chuyển thành 30 đại đội về hoạt động độc lập ở một số huyện trên địa bàn chiến dịch. Việc phân tán binh lực một số trung đoàn thành “các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung” không phải là “bước lùi” về quy mô tổ chức sử dụng lực lượng mà là chủ trương sáng tạo phù hợp với tình hình chiến trường, nhằm đẩy mạnh chiến tranh du kích, tạo điều kiện cho các tiểu đoàn của ta tập trung tác chiến chiến dịch hiệu quả. Trên ba mặt trận (ở ba hướng chiến dịch), ta tổ chức lực lượng quy mô cấp tiểu đoàn, đại đội, nhất là ở Mặt trận Sông Lô-đường số 2, bộ đội ta chủ yếu tổ chức phục kích, kết hợp bộ binh đánh trên bộ với pháo binh đánh trên sông. Bằng cách đánh đó, ta đã khoét sâu chỗ yếu cơ bản của địch khi chúng thoát ly công sự kiên cố, thoát ly khỏi chi viện của máy bay, pháo binh; tổ chức đánh nhiều trận giành thắng lợi lớn. Các đơn vị bộ đội còn hỗ trợ dân quân, du kích hoạt động ở nhiều nơi, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, buộc chúng phải rút lui, giữ vững căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.

Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 có ý nghĩa chiến lược quan trọng, đã đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của địch, góp phần quyết định làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, giữ vững căn cứ địa kháng chiến của cả nước. Chiến dịch Việt Bắc đánh dấu mốc hình thành rõ nét về nghệ thuật chiến dịch, trong đó chọn đúng hướng (khu vực tác chiến) phản công, lập thế trận bố trí lực lượng phù hợp và vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo để đánh địch giành thắng lợi.

Đại tá, TS Dương Đình Lập