Trước sự uy hiếp và bị thiệt hại bởi những đòn tiến công của quân và dân miền Nam vào các căn cứ quân sự Mỹ, buộc chúng phải đặc biệt chú trọng tăng cường bảo vệ và bố trí các hệ thống chướng ngại vật nhiều tầng, nhiều lớp...
Trước sự uy hiếp và bị thiệt hại bởi những đòn tiến công của quân và dân miền Nam vào các căn cứ quân sự Mỹ, buộc chúng phải đặc biệt chú trọng tăng cường bảo vệ và bố trí các hệ thống chướng ngại vật nhiều tầng, nhiều lớp. Nhiều căn cứ quân sự Mỹ sử dụng chướng ngại bằng dây thép gai có chiều sâu đến hàng trăm mét. Dưới hàng rào và giữa các lớp rào còn bố trí các loại mìn chống bộ binh, chống tăng và mìn pháo sáng. Dây thép gai làm bằng các loại thép cứng khó cắt, các móc trên dây cũng được cải tiến để gây trở ngại cho việc chui luồn. Các hệ thống chướng ngại dày 100m đến 200m này lại được một hệ thống đèn chiếu và hỏa lực mạnh bảo vệ.
Để phá hủy các hệ thống chướng ngại chắc chắn trên và tạo c
 |
Cán bộ Đảng, Nhà nước ta kiểm tra bệ phóng vũ khí phá rào do quân đội ta chế tạo. Ảnh tư liệu
|
ửa mở cho bộ binh xung phong, bộ đội ta không thể sử dụng các phương pháp cũ như dùng bộc phá hoặc chui luồn dưới các hàng rào đặt các ống bộc phá liên kết với nhau để phá rào. Khi dùng 9 quả mìn định hướng liên kết, ta cũng chỉ phá được từ 30m đến 40m hàng rào nhưng không phá được mìn. Vì vậy, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho các nhà khoa học quân đội khẩn trương nghiên cứu chế tạo loại vũ khí để phá rào và các bãi mìn trên chiều sâu từ 100m đến 200m trong thời gian ngắn nhất, sao cho đèn chiếu và hỏa lực của địch không phản ứng kịp, mở cửa rộng từ 3m đến 5m cho bộ binh và cơ giới vượt qua.
Quân đội các nước bạn như Liên Xô (trước đây) đã có vũ khí phá rào UZE-3, Ba Lan có tên lửa kéo lượng nổ phá mìn... Song các loại vũ khí ấy không phù hợp với khả năng công nghệ và yêu cầu chiến thuật của ta. Trên cơ sở nghiên cứu nguyên lý các loại vũ khí của địch, năm 1969, các nhà khoa học Viện Kỹ thuật quân sự tiến hành nghiên cứu thiết kế định hình một hệ thống vũ khí phá rào (FRA) dùng động cơ ĐKB làm động lực kéo có thể phá được 100m rào và bãi mìn. Sau nhiều lần cải tiến thiết kế, chế thử và thử nghiệm thực địa rất công phu, vũ khí FRA dùng động cơ một kiểu tên lửa sẵn có làm động lực kéo có thể phá được 200m rào và bãi mìn. Giai đoạn thử nghiệm diễn ra trong suốt năm 1972, vừa đưa vào chiến đấu, vừa tiếp tục nghiên cứu đặt FRA trên xe tăng. Đầu năm 1972, trên chiến trường Quảng Trị, bộ đội ta sử dụng FRA trong chiến đấu. Ngay từ phát FRA đầu tiên đã mở cửa qua toàn bộ chiều sâu hệ thống chướng ngại bảo vệ cao điểm 544. Sau đó, hai phát FRA đã được sử dụng để đánh vào Ái Tử, phá sạch chướng ngại, mở cửa rộng 4m và bộ binh đã xung phong qua cửa mở.
Thụy Biên