QĐND - Chúng tôi, những cán bộ, chiến sĩ của Phòng Điện ảnh (mật danh B8) thuộc Cục Chính trị Quân giải phóng miền Nam. Như những thành viên khác của Đoàn B, chúng tôi từ Lộc Ninh vào Trại Đa-vít bằng máy bay trực thăng của Mỹ. Tổ chiếu phim có 4 thành viên: Anh Trần Trung Đệ, quê Bến Tre; anh Nghiệp, quê Khánh Hòa; anh Nguyễn Cảnh Hòe, quê Nghệ An. Ba anh đi trước, còn tôi Phạm Văn Lãi, quê Thái Bình vào sau.

Trại Đa-vít vốn là doanh trại cũ của đơn vị thuộc tập đoàn không quân số 7 Mỹ. Khi mới đến đây thật là khủng khiếp, đúng là khu ổ chuột. Nơi này đối với lính Mỹ xứng đáng được bình chọn vào loại nhất trong số những hạng lính viễn chinh về lối sống bê tha mất nhân tính, bẩn thỉu, dâm ô… Khắp nơi nhan nhản tạp chí, sách báo, tranh ảnh khiêu dâm… Những ống bơm tiêm bằng nhựa trong suốt còn nhờ nhờ máu vứt hàng đống, những mảng bông băng đầy máu mủ tanh nồng…

Một người lái xe cho phái đoàn ta khoảng 40 tuổi, nói giọng Bắc với chúng tôi: "Các ông phải chú ý, đừng giẫm đạp lên những ống bơm kim tiêm, phải gom lại đốt thật kỹ, tẩy uế tất cả mọi thứ đồ dùng lính Mỹ bỏ lại, cả chậu rửa, bồn tắm, nhà vệ sinh… Lây những thứ bệnh này thì khổ cả đời đấy!". Mất cả tuần lễ dọn dẹp vệ sinh, chúng tôi mới dám sử dụng các loại đồ đạc dùng cho sinh hoạt hằng ngày.

Các thành viên Đoàn đại biểu quân sự liên hợp chăm sóc rau và hoa trong Trại Đa-vít. Ảnh tư liệu.

Đời sống tinh thần của lính Mỹ còn tệ hại hơn, bên vách tường, sàn nhà chằng chịt những dòng chữ than vãn, chửi rủa số phận, oán trách nhà cầm quyền Mỹ… Một đạo quân có đời sống vật chất, tinh thần như vậy thì thất bại trong cuộc chiến không có gì đáng phải ngạc nhiên.

Tổ chiếu phim của chúng tôi chỉ làm việc trong Trại Đa-vít là trụ sở của hai đoàn ta. Các buổi chiếu phim không chỉ phục vụ cán bộ, chiến sĩ đơn vị, mà có cả những người lái xe cho phái đoàn, nhà thầu cung cấp lương thực, thực phẩm, phóng viên của hơn 80 tờ báo, tạp chí trong và ngoài nước, các hãng thông tấn lớn trên thế giới khi vào dự họp báo (trong số phóng viên đó, nhiều người là tình báo an ninh, mật vụ của Mỹ - ngụy). Những tối thứ tư, thứ bảy hằng tuần, chúng tôi tổ chức chiếu phim phục vụ ngoài trời còn có cả những người xem bên kia hàng rào nữa. Họ là lính gác xung quanh khu vực Trại Đa-vít, trên các chòi canh, các ụ súng đang chĩa nòng vào chỗ ở của hai đoàn ta. Họ xem phim được vì màn ảnh rộng, ở trên cao, có loa phóng thanh nghe rất rõ… Theo dõi số lính các vọng gác xung quanh, chúng tôi thấy họ thay đổi xoành xoạch. Có lẽ bọn chỉ huy sợ số lính này bị tác động phim ảnh và văn hóa của cách mạng nên không dám để gác lâu. Nhưng hằng ngày họ tận mắt nhìn thấy cán bộ, chiến sĩ ta sinh hoạt tiếp xúc và làm việc trong một khu vực hẹp như thế thì Mỹ-ngụy bưng bít sao được. Những cái miệng tâm lý chiến, những kẻ ngoa ngôn thì tìm mọi cách bôi nhọ cách mạng đều bất lực vì sự thật hiện ra trước mắt những người lính kia đủ phản bác các điều bịa đặt ấy.

Ngày mới vào Trại Đa-vít, chúng tôi còn phục vụ cho cả loại "khán giả đặc biệt" nữa. Hôm đó là ngày 6 tháng 2 năm 1973, gần tối, một thiếu tá Mỹ trong bộ phận sĩ quan liên lạc dẫn vào trụ sở hai đoàn ta 7 lính Mỹ của một đơn vị thông tin. Số lính Mỹ này có nhiệm vụ làm giấy "chứng minh thư" cho các thành viên của đoàn ta trong Ban Liên hợp quân sự bốn bên. Họ chụp ảnh chân dung từng người, đánh máy họ tên, cấp bậc, đơn vị và bọc vào nilon. Rất nhanh, chỉ vài phút là hoàn chỉnh một "chứng minh thư" vì mẫu đã được in sẵn theo thỏa thuận. Sau khi bàn giao để 7 người lính này ở lại làm nhiệm vụ, viên thiếu tá sĩ quan liên lạc Mỹ ra về. Cấp bậc cao nhất trong số 7 người lính này là hạ sĩ, tuổi xấp xỉ hai mươi. Có hai người da đen, năm người da trắng. Tìm hiểu tôi được biết họ mới từ Ha-oai sang Việt Nam. May mắn cho họ là Hiệp định Pa-ri vừa ký, sẽ không có ai phải ra trận, đi càn, đàn áp nhân dân Việt Nam... Đối với họ, Hiệp định Pa-ri là bùa hộ mệnh thật sự giá trị, bảo đảm cho họ không phải bỏ xác nơi đất khách…

Trông những người lính Mỹ này không thấy vẻ hung hãn, man rợ như bọn lính đi càn quét vào các xóm làng, căn cứ cách mạng của ta. Trên khuôn mặt non choẹt, tươi tỉnh đã có lún phún những sợi lông tơ lờ mờ hai bên mép. Họ vui vẻ làm việc, ánh đèn plasma của máy ảnh liên tục lóe sáng. Tiếng lách cách của chiếc máy đánh chữ Optima làm cho hội trường nhộn nhịp hẳn lên.

Ngoài cửa hội trường, chúng tôi căng phông để tối chiếu phim. Phía tây bầu trời nhợt nhạt hẳn đang chuyển dần sang màu xám. Gió biển lồng lên làm cho tấm phông trắng rung phần phật. Loa phóng thanh có tiếng thổi phù phù của gió vào micro. Máy chiếu đã căn chỉnh hình lên màn phông, chỉ chờ đến giờ phục vụ.

Trong hội trường, những lính Mỹ vẫn làm việc. Lúc này cán bộ, chiến sĩ ta đã ra ngoài sân, trong nhà chỉ còn ít người. Công việc không hối hả như trước, một lính Mỹ có cấp bậc hạ sĩ đến gặp đồng chí sĩ quan liên lạc của ta, mạnh dạn đề nghị cho phép họ lần lượt đứng dưới ảnh Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm. Được phép, cả 7 người lính Mỹ, từng người đứng nghiêm trang, vẻ mặt kính cẩn dưới bức ảnh lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam để bạn mình chụp hộ. Mỗi người đều có một tấm ảnh vô cùng quý giá ấy.

Lúc đó cán bộ, chiến sĩ ta đến chụp ảnh làm "chứng minh thư" ai nấy trên ngực áo đều có huy hiệu Bác Hồ. Một lính Mỹ da đen, cấp hạ sĩ, sau nhiều lần lưỡng lự đã mạnh dạn hỏi xin chúng tôi tấm huy hiệu Bác Hồ. Ban đầu có thể họ nghĩ là trang bị cần thiết cho một người nên không dám hỏi. Nhưng rồi không thể đừng được nên đã liều thử hỏi xem sao?

Các đồng chí ta vui vẻ đồng ý ngay, từng người tự gỡ huy hiệu của mình và trao cho những người lính Mỹ. Thế là cả 7 người lính Mỹ mỗi người được tặng một huy hiệu Bác Hồ, họ vui sướng tự tay cài huy hiệu lên ngực và nhờ bạn chụp cho một tấm ảnh có đeo tấm huy hiệu của Người. Chụp xong, họ gỡ huy hiệu ra, lấy nilon bọc cẩn thận và cất vào túi áo ngực mình. Một người lính khác bỗng hô to: "Việt Nam, Hồ Chí Minh". Cả tốp lính Mỹ cùng đồng thanh hô theo. Họ phấn khởi và tỏ ra tự hào thực sự khi được nhận món quà vô giá đó.

Ngoài sân, trời Sài Gòn đã tối hẳn. Giờ chiếu phim cũng đến rồi. Hôm ấy, chúng tôi phục vụ đơn vị bộ phim tài liệu "Bác Hồ với thiếu nhi" và bộ phim vũ kịch ba lê "Ngọn lửa Nghệ Tĩnh". Người xem đến ngồi trước sân hội trường, họ bê ghế ra ngoài và ngồi gần bên máy chiếu. Các đồng chí lãnh đạo hai đoàn ta ngồi hàng ghế trên, anh em trẻ ngồi bệt trên dép cao su ở phía trước.

Tốp lính Mỹ đang làm việc trong hội trường thấy phim đã chiếu, hình ảnh Bác Hồ xuất hiện trên màn ảnh, họ nói với đồng chí phiên dịch: "Cho chúng tôi thay nhau ra xem phim". Lúc này trên phông hình ảnh các cháu thiếu nhi đang chạy ùa về phía Bác Hồ, mấy người lính Mỹ còn lại không muốn bỏ lỡ dịp bèn nài nỉ: "Chúng tôi sẽ làm bù dù có phải thức khuya đến mấy cũng được". Họ đứng bên cạnh máy chiếu và nghe lời thuyết minh phim qua đồng chí phiên dịch của ta. Chúng tôi cảm thấy vui vì hôm nay được phục vụ cho những khán giả đặc biệt này.

Bảy lính Mỹ chăm chú xem phim, lời thuyết minh được người phiên dịch minh họa làm cho hình ảnh thêm sống động. Họ thích thú thật sự, nhiều lần nhìn thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh vui cười bên các cháu thiếu niên, nhi đồng. Người gần gũi biết bao, không chỉ với các em nhỏ Việt Nam mà với cả các em thiếu nhi của nhiều đất nước xa lạ khác… Bác đang từ thềm Phủ Chủ tịch bước xuống đón đàn cháu nhỏ, các cháu xúm quanh, Bác chia kẹo cho từng cháu. Có một hình ảnh gây thích thú nhất là một cháu bé đưa bàn tay xinh xắn vuốt chòm râu bạc của Người, Bác cúi xuống hôn cháu… Cả tốp lính Mỹ lúc ấy đều cười thích thú, trong ánh mắt chứa chan niềm kính yêu và họ cảm thấy như đang đứng rất gần vị lãnh tụ nổi tiếng khắp năm châu. Viên hạ sĩ da đen nói như để mọi người xung quanh cùng nghe: "Ông già Noel của Việt Nam". Giai điệu lời hát "Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng..." đang vang xa, bay cao trên vùng trời Tân Sơn Nhất.

Buổi chiếu phim tối hôm đó thật nhiều ý nghĩa. Với những người lính Mỹ kia xem hai bộ phim của Việt Nam và được tặng tấm huy hiệu Bác Hồ, chụp ảnh lưu niệm dưới chân dung của Người trên nền cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là món quà vô giá đối với họ. Khi trở về bên kia bán cầu nhất định những người lính đó sẽ nói nhiều điều tốt đẹp về đất nước Việt Nam, về cách mạng và Bác Hồ kính yêu của chúng ta!

-------------

(còn nữa)

Phạm Văn Lãi - Cựu chiến binh Ban liên lạc truyền thống Ban Liên hợp quân sự Trại Đa-vít.