QĐND Online - 50 năm đã trôi qua, nhưng đến nay kỷ niệm về đường Hồ Chí Minh trên biển, về những người đồng chí, đồng đội vẫn còn in đậm trong ký ức các cựu chiến binh tàu Không số. Gặp gỡ họ, chúng tôi được nghe nhiều câu chuyện cảm động và thú vị…

Chuyến đi bão táp và chuyện con rái cá

Chuyến đi cuối năm 1964 trên Tàu 42 là một kỷ niệm khó quên đối với cựu chiến binh tàu Không số Vũ Trung Tính. Sau khi vận chuyển vũ khí vào bến Cà Mau an toàn, Tàu 42 trở ra miền Bắc. Tới khu vực quần đảo Trường Sa, tàu gặp bão lớn. Sóng, gió gầm gào, mặt biển cuồn cuộn  như những túi nước khổng lồ, muốn nuốt chửng con tàu. Những con sóng cao tới 2-3 mét hất con tàu lên rồi lại dìm nó xuống. Được tiếng là dân biển, có khả năng chịu sóng, gió, vậy mà bác Vũ Trung Tính cũng bị say mềm, nôn ra ...mật xanh mật vàng. Sóng đánh dữ quá, anh em trên Tàu 42 ai cũng mỏi mệt, phải thay nhau cầm lái. Cứ mỗi người trụ được vài phút là người khác lại phải...thay ca. Giữa những con sóng bạc đầu, Tàu 42 vặn mình răng rắc như muốn vỡ tung. Đã có lúc anh em nghĩ tới cái chết. Cứ thế, 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày, Tàu 42 tả tơi hứng trọn cơn bão.

Sang ngày thứ tư, sóng gió giảm dần. Anh em trên tàu mới thống kê "tổng thiệt hại". Ngoài một số trang thiết bị trên tàu bị vỡ nát, Vũ Trung Tính còn mất đi một “món quà quí” của bác Bông Văn Dĩa, người phụ trách bến Cà Mau, gửi ra miền Bắc.

- Đó là con rái cá anh Dĩa nuôi đã lâu. Nó rất tinh khôn và trung thành với chủ. Nhờ anh kiên trì huấn luyện nên ngày nào con rái cá cũng ra sông lặn ngụp, kiếm cá về cho anh, ông Tính kể.

Thấy Vũ Trung Tính mê con rái cá quá, Bông Văn Dĩa đã nhờ ông đưa con vật cưng của mình ra Bắc, tặng cho Vườn bách thú Hà Nội và nói rằng đây là quà của đồng bào miền Nam gửi tặng.

Vậy mà trong sóng gió bão bùng, con rái cá mấy hôm không ăn uống được gì, kiệt sức rồi chết, làm ông Tính cứ tiếc mãi...

Cựu chiến binh Trần Phong (trái) và cựu chiến binh Khưu Ngọc Bảy

Kỷ niệm máu thịt về những con tàu

Gặp 2 cựu chiến binh Trần Phong và Khưu Ngọc Bảy tại nhà khách Hải quân. Thấy họ cứ quấn quýt nhau rồi kể lại chuyện xưa, hỏi ra mới biết, trước đây cả 2 người đều làm công tác tham mưu.

Bác Trần Phong từng là thuyền trưởng tàu Không số, tham gia vận chuyển 3 chuyến vào miền Nam. Sau đó bác về làm công tác tham mưu ở Đoàn 125 trong giai đoạn khó khăn nhất của con đường vận chuyển. Còn bác Bảy từng "đi nhờ" tàu Không số của bác Trần Phong vào Cà Mau, sau đó làm công tác tham mưu ở bến bãi. Sau gần nửa thế kỷ, chuyện về những chuyến đi vẫn còn in đậm trong tâm trí của 2 người, đặc biệt là kỷ niệm về 4 con tàu Không số trong chiến dịch Mậu Thân 1968.

Bác Phong kể: Đợt ấy, Tàu 165 vào Vàm Lũng (Cà Mau), Tàu 235 vào Hòn Hèo (Khánh Hòa), Tàu 43 vào Đức Phổ (Quảng Ngãi) và Tàu 56 vào bến Lộ Giao (Bình Định). Tàu đi rồi, ở chỉ huy Đoàn ai cũng thấy lòng mình nóng như lửa đốt. Sau đó, chỉ có Tàu 56 quay về, với thủy thủ đoàn gần như kiệt sức.

Hơn 40 năm đã qua, vậy Trần Phong vẫn không sao quên được hình ảnh những người lính kiên trung trên những con tàu năm đó. Thuyền trưởng của Tàu 56 là Nguyễn Văn Ba (hay còn gọi là Ba râu), lúc nào cũng hết mình vì công việc. Mỗi lúc bị cơn đau dạ dày hành hạ, một tay ôm bụng, một tay Ba vẫn gắng gượng làm chứ quyết không chịu nằm; Chính trị viên Đỗ Sạn thì chắc khỏe, thẳng thắn, bộc trực, có lệnh là đi ngay. Bộ đôi này phối hợp rất ăn ý mỗi lần đối mặt với địch. Thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn của Tàu 43, đều là người nhỏ nhẹ, chắc chắn, trầm tĩnh. Họ không chỉ bình tĩnh xử trí tình huống khi gặp địch mà còn tận tình, chu đáo với anh em trong thủy thủ đoàn, khi vượt Trường Sơn trở về miền Bắc.

Còn trên con tàu 235, bác Trần Phong vẫn nhớ như in người thuyền trưởng bản lĩnh và quả cảm Nguyễn Phan Vinh, cùng Chính trị viên Nguyễn Tương cao gầy, góc cạnh. Hai anh em đó ở Quảng Nam, cùng quê với Trần Phong. Trên con tàu đó còn có 2 thuyền phó Đoàn Văn Nhi và Võ Tá Tu, máy trưởng Trương Văn Mùi cùng đội ngũ thủy thủ, cơ điện, báo vụ. Họ đã làm nên một tập thể thép trên con Tàu 235.

Bác Bảy thì không sao quên được những ngày làm tham mưu ở bến. Tàu Không số chở hàng vào, việc đầu tiên của bến là bảo vệ tàu, rồi bốc hàng, đưa vào kho, vượt nước mặn sình lầy, phân phối đi khắp nơi, rồi tổ chức cho anh em tàu Không số rời bến trở về miền Bắc. Bác Bảy kể lại chuyện Tàu 165 vào Cà Mau với niềm nhớ tiếc khôn nguôi: “Đêm đón tàu, cả bến sẵn sàng nhưng ai cũng nơm nớp lo âu. Rồi phía biển, có nhiều luồng đạn, ánh chớp vọt lên. Tiếp theo là quầng sáng cùng tiếng nổ lớn trùm trên biển. Thời khắc ấy, anh Bông Văn Dĩa đã khóc nấc lên: Chánh Tâm ơi! Lương ơi!”.

Những ngày sau, lực lượng của bến tổ chức đi tìm kiếm dọc theo mép biển, nhưng chỉ lượm được 2 báng súng K44, vài mảnh vụn của ra-đi-ô có màu nâu đỏ, một đoạn cột ăng ten và một mảnh áo phao...Với Tàu 165, tất cả chỉ còn là vậy…

Bài, ảnh: Thu Hương- Trịnh Dũng