QĐND Online - Những năm 1966-1967, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như điều kiện nghiên cứu khoa học quân sự của ta còn hạn chế nhiều về khả năng đáp ứng các yêu cầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Trong khi đó, máy bay Mỹ điên cuồng đánh phá các tuyến vận chuyển hậu cần của ta từ hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam. Chúng rải xuống rất nhiều bom sát thương, đặc biệt là các loại: Bom mẹ bom bi hình cầu nổ ngay CBU-24B/B (chứa từ 550 đến 640 quả bom con và ngòi nổ chậm hẹn giờ cơ khí. Bom rơi, sau một thời gian, ngòi nổ hẹn giờ làm việc, tách đôi bom mẹ, tung bom con ra ngoài). Bom bi hình cầu nổ chậm “quả ổi” BLU-26/B (bán kính sát thương dày đặc là 10m. Thân bom có vỏ bằng kim loại, dày 7mm đúc lẫn 280-300 viên bi đường kính 5mm, bên trong chứa 100g thuốc nổ cyclotol. Lúc tách khỏi bom mẹ, bom con tự quay, đưa ngòi nổ vào vị trí sẵn sàng phát huy tác dụng. Khi chạm mục tiêu, kim hỏa chọc vào hạt nổ, gây nổ bom). Giàn ống phóng bom phá mảnh vụn “quả cam” CBU-46/A (có 19 ống, chứa 360 quả bom con, ngòi nổ và thuốc phóng. Ngòi nổ hoạt động gây cháy thuốc phóng, đẩy bom con ra ngoài)… Những quả bom có hình dáng dễ thương như những thứ đồ chơi ấy đã sát thương, hủy hoại sức chiến đấu của bộ đội ta.

Ôn lại những sự kiện trong đời quân ngũ là niềm vui của Đại tá Trần Thịnh Tần và người vợ cũng là cựu chiến binh.

Cuối năm 1966 - đầu năm 1967, Đại tá Đinh Đức Thiện, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (về sau là Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) đang kiểm tra, nắm tình hình tại Ban đại diện Tổng cục Hậu cần tiền phương (ở Hương Đô, Hương Khê, Hà Tĩnh), đã chứng kiến tận mắt những hy sinh của bộ đội lái xe, bộ đội công binh trước sự đánh phá của máy bay địch ở phía nam Quân khu 4. Ông điện ra, yêu cầu cơ quan Tổng cục nghiên cứu, chế tạo thử áo giáp chống bom bi; trong vòng một tháng phải xong và mang mẫu vào sở chỉ huy Ban đại diện Tổng cục tiền phương gặp ông.

Nhiệm vụ đặc biệt này được giao cho Thượng úy Trần Thịnh Tần, Chủ nhiệm khoa Quân trang, thuộc phòng nghiên cứu Cục Quân nhu, cùng kỹ sư Phạm Hồng Điệp, Trợ lý kỹ thuật của khoa (về sau, cả hai ông đều là Đại tá và đều qua cương vị Cục trưởng Cục Quân trang) đảm nhiệm. Theo giấy giới thiệu của lãnh đạo Tổng cục Hậu cần, tổ công tác đến Bộ tư lệnh Hải quân liên hệ xin một số tấm đuya-ra (kim loại nhẹ và cứng, dùng vá tàu cao tốc của hải quân, do Liên Xô viện trợ) về sản xuất thử một chiếc áo giáp chống bom bi. Thượng úy Trần Thịnh Tần không giấu nổi lo lắng: Làm một hai cái thì không có vấn đề gì. Nhưng nếu thành công, lấy đâu ra vật tư để sản xuất hàng loạt! Như đã quan tâm đến điều đó, Tổng cục chỉ đạo cấp tốc thử nghiệm sức chịu đựng bom bi trên các tấm đuya-ra của Liên Xô; đồng thời, cũng triển khai việc chế tạo áo chống bom bi từ một sản phẩm “vườn tược” của người dân Việt Nam. Đó là…cật tre già.

Tổ công tác miệt mài không kể ngày đêm, cưa các tấm đuya-ra thành những mảnh có kích thước 5cm x 10cm. Sau đó cho vào các túi nhỏ, đính từng lớp như lợp ngói trên áo trấn thủ. Các gốc tre đực cũng được chẻ ra, để nguyên độ dày vốn có của chúng rồi cho vào các túi vải, đính tương tự như với áo giáp đuya-ra nói trên... Sau đó, Tổng cục lệnh cho Cục Quân khí thử nghiệm bằng cách cho bom bi nổ trên máy li tâm (do Cục Quân khí chế tạo). Các tấm giáp được treo ở cự ly một mét, hứng mảnh bom bi. Kết quả đáng khích lệ. Các tấm đuya-ra đã cản gần như tuyệt đối sự sát thương của 100% mảnh bom bi và khoảng 80% số viên bi. Trên tấm giáp tre, hầu hết mảnh vụn bom bi và khoảng 60% các viên bi đã kết lại trên các thanh tre đực ghép song song.

Ngay lập tức, tổ công tác bắt tay thiết kế những chiếc áo giáp hoàn chỉnh, có cổ cao; đuôi áo trễ xuống che hạ bộ phía trước và xương cùng của người mặc áo. Những chiếc áo giáp khi hoàn chỉnh, loại bằng đuya-ra nặng 6kg, loại bằng tre đực nặng 8kg. Còn loại giống như áo mưa trùm kín thì nặng tới hơn 20kg. So với chỉ tiêu thời gian Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện giao, việc chế tạo sớm được một ngày.

Nhận được mẫu và nghe báo cáo kết quả chế thử các áo giáp chống bom bi do Thượng úy Trần Thịnh Tần cùng Thiếu úy Phạm Hồng Điệp trực tiếp trình bày tại trụ sở Ban đai diện Tổng cục Hậu cần tiền phương, Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện rất hài lòng. Sau khi mặc thử từng chiếc áo, ông quyết định viết đơn hàng và vẽ mẫu, xin Liên Xô viện trợ sản xuất hàng loạt áo giáp đuya-ra. Riêng với áo giáp bằng tre, ông quyết định làm một cái thật đẹp để tặng đồng chí Phi-đen Ca-xtrô, lãnh tụ nước Cộng hòa Cu Ba.

Không lâu sau, hàng vạn chiếc áo giáp viện trợ của Liên Xô đã được chúng ta tiếp nhận và chuyển nhanh cho bộ đội lái xe và công binh tuyến trước.

Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG