 |
Nhân dân Sài Gòn đón chào quân Giải phóng trong ngày 30-4-1975. (Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN)
|
Quy luật chung trong chiến tranh và tác chiến, sức mạnh đánh địch có vị trí rất quan trọng, giữ vai trò quyết định giành thắng lợi. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đảng ta đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, đánh địch trên nhiều mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế binh vận và ngoại giao. Quá trình đánh địch, chúng ta đã kết hợp tiến công và nổi dậy, lấy sức mạnh quân sự làm trung tâm, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; phối hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, tiến hành thành công nhiều trận đánh lớn, chiến dịch, nhất là chiến dịch chiến lược. Trong tác chiến các lực lượng đã đánh địch trên nhiều môi trường, phát huy sức mạnh cả ở tiền tuyến và hậu phương, tổ chức và tiến hành thành công chiến dịch quyết chiến chiến lược đánh thắng quân địch, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Nét nổi bật trước hết là chúng ta đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, đánh địch trên nhiều mặt trận.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đường lối tiến hành chiến tranh của Đảng, là tiến hành chiến tranh nhân dân. Tổ chức thực hiện thành công đường lối, trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ta đã phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, trên mọi miền đất nước đẩy mạnh đánh địch. Về cách đánh, quân và dân ta đã đánh địch trên nhiều mặt trận. Cùng với mặt trận quân sự, trên mặt trận chính trị ta đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân và dư luận thế giới thấy rõ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến; chính sách hòa hợp dân tộc là nguyện vọng chính đáng của toàn dân, làm rõ bản chất chính quyền tay sai mưu toan chia cắt đất nước lâu dài của kẻ thù…
Trên mặt trận kinh tế cùng với phát triển hậu phương miền Bắc, ta đẩy mạnh phát triển kinh tế ở vùng giải phóng, thông qua cơ sở chính trị để mua hàng hóa trong vùng địch tạm chiếm, vận chuyển ra, tăng cường khả năng dự trữ cho chiến đấu. Trong công tác binh vận, ta thuyết phục, giác ngộ những binh sĩ, những người lầm đường, lạc lối giúp họ nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, trở về phục vụ cách mạng…
Trên mặt trận ngoại giao, sau hiệp định Pa-ri được ký kết, ta tiếp tục đấu tranh, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, cả nhân dân Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam… Có thể nói ta đã phát huy cao nhất sức mạnh và cách đánh sở trường của từng lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp đánh thắng quân địch.
Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, lấy sức mạnh quân sự làm trung tâm, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Đặc điểm trong chiến tranh giải phóng, lực lượng ngụy quân luôn coi trọng thiết lập hệ thống đồn bốt, tạo thế để hệ thống ngụy quyền kìm kẹp nhân dân. Trong tổng tiến công các lực lượng đã kết hợp rất chặt chẽ tiến công quân sự với nổi dậy đấu tranh giành quyền làm chủ của nhân dân. Trong tiến công quân sự, ta đã phát huy sức mạnh của lực lượng vũ trang tiêu diệt địch, phá tan hệ thống đồn bốt, chỗ dựa chủ yếu của lực lượng ngụy quyền, tạo thế có lợi để nhân dân nổi dậy đấu tranh. Trong đấu tranh các tầng lớp nhân dân đã nhất tề đứng lên diệt ác, phá kìm, lật đổ hệ thống chính quyền tay sai, giải phóng quê hương, phát triển tiềm lực cách mạng.
Chúng ta đã phối hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực.
Trong tiến công chiến lược, quân và dân ta đã phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân địa phương đánh địch rộng khắp trên toàn chiến trường, sát thương, phân tán, căng kéo, làm suy yếu quân địch. Buộc chúng phải dồn sức, tung cả lực lượng tổng dự bị chiến lược ra chiếm giữ vùng 1 và vùng 3 chiến thuật. Đây là điều kiện và thời cơ có lợi để ta tập trung các binh đoàn chủ lực mạnh, đánh lớn, giành thắng lợi quan trọng. Mở đầu là Chiến dịch chiến lược tiêu diệt địch ở thị xã Buôn Ma Thuột, trên đường 7, đường 21, giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, phát triển xuống giải phóng các tỉnh đồng bằng Trung bộ, chia cắt quân địch về chiến lược. Tạo thế có lợi, phối hợp chiến trường, quân và dân ta đã đẩy mạnh đấu tranh và đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược, từ Quảng Trị đến đồng bằng Nam Bộ. Nắm thời cơ, quân và dân Trị Thiên, Quân khu 5, đã mở liên tiếp hai chiến dịch lớn tiến công địch, giải phóng hai thành phố Huế và Đà Nẵng, nối liền hậu phương chiến lược miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam.
Đánh địch trên nhiều môi trường đất liền, biển, đảo và trên không.
Cùng với đánh địch trên đất liền, quân và dân ta còn tiến ra đánh địch trên vùng biển của Tổ quốc. Ta đã giải phóng nhiều đảo và quần đảo do quân ngụy chiếm đóng, khẳng định và bảo vệ vững chắc chủ quyền của đất nước, tạo thế chia cắt chiến lược trên nhiều môi trường với lực lượng địch còn lại. Tạo thế có lợi để ta chi viện cho chiến trường tác chiến.
Phát huy sức mạnh cả ở tiền tuyến và hậu phương
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta không chỉ phát huy sức mạnh đánh địch ở tiền tuyến lớn miền Nam. Mà ta còn động viên sức mạnh đấu tranh trên các mặt trận, cũng như sự chi viện rất lớn về vật chất cũng như tinh thần từ hậu phương chiến lược miền Bắc. Hội đồng chi viện cho chiến trường được thành lập. Hàng vạn quân, cả binh đoàn cơ động chiến lược, hàng chục vạn tấn vật chất, cùng nhiều phương tiện tác chiến hiện đại được gấp rút đưa vào chiến trường, bằng nhiều đường và phương tiện vận chuyển bộ, thủy, không. Phát huy sức mạnh đánh địch ở cả tiền tuyến lớn miền Nam và hậu phương chiến lược miền Bắc, đã tạo ra thời cơ có lợi để quân và dân cả nước thực hiện quyết tâm chiến lược: Giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa.
Tổ chức, tiến hành thành công chiến dịch quyết chiến chiến lược đánh thắng quân địch, giành thắng lợi quyết định chiến tranh
Chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, được hình thành trong quá trình tiến công chiến lược, nhiệm vụ đặt ra rất cao, thời gian chuẩn bị lại rất ngắn. Thực hiện phương châm chỉ đạo: Thần tốc, táo bạo, chắc thắng. Trong thời gian ngắn ta đã khẩn trương cơ động tập trung lực lượng lớn, tương đương 5 quân đoàn, cùng nhiều sư và lữ đoàn của các quân chủng, binh chủng. Các lực lượng của ta đã triển khai hình thành 5 hướng tiến công mạnh, bao vây, chia cắt địch ở nhiều cấp. Lực lượng chính trị và nhân dân trên địa bàn chiến dịch được chuẩn bị, sẵn sàng tham gia đấu tranh trên các mặt trận và phối hợp đánh địch trong quá trình tác chiến. Tạo được sức mạnh ưu thế về vật chất và tinh thần, ta đã đồng loạt tiến công mạnh, đánh địch trên cả 5 hướng. Các lực lượng đã nhanh chóng tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn địch phòng ngự ở tuyến ngoài, các binh đoàn thọc sâu mạnh, đánh thẳng vào các mục tiêu chủ yếu bên trong nội đô, như: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu ngụy... hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy đấu tranh giành chính quyền. Có nghệ thuật tạo sức mạnh, lại vận dụng sáng tạo cách đánh, quân và dân ta đã đánh nhanh, giành thắng lợi quyết định chiến dịch quyết chiến chiến lược, tạo thế để quân và dân đồng bằng Nam Bộ đẩy mạnh đánh địch, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Bài học thành công về phát huy sức mạnh đánh địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975, rất cần được các cấp và các ngành nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn xây dựng nền quốc phòng, cũng như chuẩn bị và đánh địch trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ mới.
Thiếu tướng, PGS, Tiến sĩ Bùi Thanh Sơn