QĐND Online - Tháng 10-1965, Đại đội vận tải TNXP 206 Đường sông (C206) nằm trong đội hình Đoàn vận tải 3 (Cục vận tải Đường sông, Bộ Giao thông vận tải) ra đời, với biên chế gần 300 thanh niên của huyện Thuỵ Anh, Thái Ninh và Đông Quan (Thái Bình).
C206 có nhiệm vụ dùng thuyền vận chuyển lương thực, dầu mỡ, nhu yếu phẩm từ Thanh Hóa theo kênh Nhà Lê vào Hà Tĩnh. Những con thuyền sử dụng đều do Xưởng 20 đóng quân ở Thiệu Hóa (Thanh Hóa) sáng chế. Loại thuyền này có sức chở trên dưới 10 tấn do 5 thủy thủ điều khiển, được đóng hoàn toàn bằng đinh gỗ nhằm hạn chế tối đa tính năng của bom từ trường. Giai đoạn đầu, tuyến vận tải trên kênh Nhà Lê với hàng ngàn con thuyền vừa và nhỏ của lực lượng TNXP hỏa tuyến hoạt động khá thuận lợi.
Một thời gian sau, đế quốc Mỹ phát hiện ra sự lợi hại của con kênh này nên điên cuồng bắn phá nhằm ngăn cản các chuyến vận chuyển của ta. Từ đó việc điều khiển những con thuyền nhỏ bé trên kênh Nhà Lê được liệt vào hành động cảm tử. Một chuyến hàng vượt chặng thủy lộ 300 cây số Thanh Hóa-Hà Tĩnh cả đi lẫn về mất gần tháng ròng. Hội trường Xưởng 20 là nơi Ban chỉ huy thường xuyên long trọng tổ chức lễ truy điệu sống cho các đồng chí thuyền trưởng, đại diện thủy thủ C206, trước lúc nhận sứ mệnh vận tải trên kênh Nhà Lê.
 |
|
Kênh Nhà Lê đoạn qua Nghệ An hôm nay.
|
Ngày 5-8-1967, khi đang làm nhiệm vụ, thuyền trưởng 21 tuổi Lê Xuân Đình, người xã Thụy Liên (huyện Thái Thụy, Thái Bình) bất ngờ phải đối mặt với một chiếc AD6 (một loại máy bay của Hải quân Mỹ) lừng lững xuất hiện trên bầu trời, khi cả đoàn thuyền C206 vào thế hoàn toàn lộ diện. Trước khoảnh khắc một mất một còn, với bản lĩnh tiến công kẻ thù, Lê Xuân Đình bình tĩnh giương khẩu K44 ngắm bắn. Khi chiếc máy bay vừa chạm tầm ngắm, Đình nghiến răng liên tục xiết cò trút cả ổ đạn nóng bỏng căm thù về phía mục tiêu. Bị phản công bất ngờ, máy bay địch xả rốc-két xuống con thuyền nhỏ bé. Lê Xuân Đình anh dũng hy sinh. Trước tấm gương quả cảm của thuyền trưởng Lê Xuân Đình, cả C206 và các đơn vị vận tải thủy trên dòng kênh Nhà Lê đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi tăng chuyến tăng vòng đưa thật nhiều hàng ra mặt trận để trả thù cho đồng đội.
Sau vụ Lê Xuân Đình đánh trả AD6, mọi con thuyền trên kênh Nhà Lê trở thành mục tiêu truy sát gắt gao của máy bay Mỹ. Biện pháp ứng phó mới được vạch ngay ra: Ban ngày thuyền ngụy trang tìm nơi tránh trú, thủy thủ lên bờ náu mình trong bụi rậm, gốc cây, ngay nấu ăn đi lại cũng phải cẩn trọng đề phòng những trận oanh tạc bất ngờ. Khi màn đêm vừa buông, tất cả các con thuyền lập tức rời nơi neo đậu khởi động như những chú tuấn mã trên dòng kênh đầy sôi động. Vận hành những con thuyền thời bấy giờ chỉ dựa vào thứ động lực tối cổ: mảnh buồm, con sào, mái nụ mà linh hồn là ý chí “Đào núi và lấp biển” của những thủy thủ tự đào luyện giữa mịt mù hỏa tuyến. Trừ người cầm lái, 4 thủy thủ còn lại đôi khi cũng có những phút thư thái nếu gặp gió xuôi có thể giong buồm. Nếu không vẫn là điệp khúc thâu đêm oằn lưng chống sào, đẩy nụ. Không hiếm khi do ngược nước ngược gió phải thay nhau lên bờ dùng dây rạp mình kéo thuyền trong đêm tối.
Nhớ nhất là sự cố tại Lạch Vận mùa hè năm 1967, cả ngàn phương tiện gồm thuyền gỗ C206, thuyền nan nhỏ của thanh niên sân bay Sao Vàng cùng nhiều đơn vị vận tải khác trên hành trình xuôi Hà Tĩnh không may bị mắc cạn tại Lạch Vạn. Đánh hơi được sự cố này, nhiều tốp máy bay Mỹ ập đến dội bom. Do phương tiện dồn ứ dày đặc trên một đoạn kênh chật hẹp trống trải dẫn đến thương vong hết sức đau xót. Mấy trăm thuyền bị đánh chìm. Hàng trăm chiến sĩ máu nhuộm đỏ dòng kênh. Lạch Vạn trở thành địa danh khắc ghi tội ác của giặc Mỹ.
Mất mát ấy càng khiến các TNXP càng quyết tâm hơn trên tuyến kênh Nhà Lê. Suốt gần bốn năm (1965-1969) hoạt động trên tuyến kênh Nhà Lê, C206 đã hoàn thành nhiệm vụ nhưng cũng chịu nhiều mất mát khi có đến 16 đồng chí hy sinh. Giờ đây dẫu tuổi cao sức yếu song các ông vẫn mãi tự hào mình từng là chiến sỹ C206 TNXP vận tải Đường sông ở thời mỗi lần nhổ neo là một lần truy điệu sống…
HOÀNG NGỌC (ghi theo lời kể của ông Nguyễn Văn Chương, trưởng ban liên lạc Thanh niên xung phong C206 Ðường sông)