QĐND - Để phối hợp với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam mùa Xuân 1968, Thường trực Quân ủy Trung ương đã quyết định mở chiến dịch tiến công Đường 9-Khe Sanh nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu là quân Mỹ, phá vỡ một bộ phận trong hệ thống phòng ngự của địch ở Đường 9, thu hút địch ra càng nhiều càng tốt để giam chân chúng, hỗ trợ cho Mặt trận Trị Thiên-Huế.
Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh là chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn đầu tiên của Quân đội ta trong kháng chiến chống Mỹ. Chiến dịch diễn ra dài ngày (từ ngày 20-1-1968 đến 15-7-1968); sử dụng nhiều lực lượng, nhiều phương tiện, vũ khí trang bị hiện đại; quân số tham gia chiến dịch trung bình khoảng 57.500 người, lúc cao điểm lên tới hơn 6000 người. Địa bàn diễn ra chiến dịch phức tạp, đường vận chuyển rất khó khăn; phương tiện vận chuyển chủ yếu bằng vận tải bộ. Địch sử dụng không quân, pháo binh đánh phá ác liệt. Đây thực sự là một thử thách lớn với công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho chiến dịch.
 |
|
Bộ đội hậu cần vận chuyển vật chất hậu cần phục vụ chiến dịch Đường 9-Khe Sanh (1968). Ảnh tư liệu của Bảo tàng Đường 9, Quảng Trị
|
Nắm vững những đặc điểm trên và ý định tác chiến chiến dịch, Cơ quan Hậu cần chiến dịch (HCCD) đã nghiên cứu, đánh giá tình hình, những khó khăn, thuận lợi, qua đó xây dựng được kế hoạch tổ chức lực lượng và biện pháp thực hiện bảo đảm hợp lý. HCCD đã quán triệt tốt nguyên tắc bảo đảm hậu cần chiến đấu, tập trung lực lượng và vật chất bảo đảm cho hướng tây là hướng tiến công chủ yếu. Trên hướng này, HCCD đã bố trí căn cứ hậu cần A1 ở Cha Ky, bắc Đường 9; căn cứ hậu cần A3 ở Ha Sin Ko, nam Đường 9 và căn cứ hậu cần A2 ở Pe Rang, bắc Bản Đông, sát Đường 9. Trên hướng đông, (hướng tiến công thứ yếu), HCCD đã dựa vào các cơ sở hậu cần triển khai từ trước của Mặt trận Đường 9-bắc Quảng Trị (trực thuộc Quân khu 4). Căn cứ hậu cần phía sau được bố trí trong khu vực núi Thị Vệ (nam Thạch Hãn); căn cứ hậu cần phía trước ở khu vực Bến Quang; đồng thời bố trí một đội điều trị ở khu vực Bồ Hố Sứ, bắc sông Bến Hải để bảo đảm cho các đơn vị hoạt động trên hướng tây Vĩnh Linh.
Để bảo đảm đầy đủ, kịp thời nhu cầu vật chất hậu cần, vũ khí trang bị, đạn dược cho chiến dịch, HCCD đã sử dụng lực lượng trên cả hai hướng đông và tây từ 4 đến 6 tiểu đoàn và 11 đại đội vận tải bộ; từ 7 đến 11 đội điều trị; từ 4 đến 6 trạm sửa chữa xe kỹ thuật; 4 tiểu đoàn dân công của các tỉnh: Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Tổng lực lượng làm công tác bảo đảm hậu cần lúc cao điểm lên tới 7.624 cán bộ, chiến sĩ và dân công. Bằng phát huy sức mạnh tổng hợp, đến cuối tháng 6-1968, HCCD đã tổ chức vận chuyển dự trữ được 22.253 tấn, trong khi dự kiến tiêu thụ toàn chiến dịch khoảng 16.000 tấn, chiếm khoảng 71% tổng dự trữ. Với khối lượng vật chất như vậy, HCCD đã đáp ứng được đầy đủ và kịp thời mọi nhu cầu vật chất hậu cần cho chiến dịch; bảo đảm tốt cho đơn vị, không vì thiếu vật chất mà chiến dịch phải tự hoãn.
HCCD bố trí các đội điều trị thành hai tuyến: 3 đội điều trị tiếp cận tiểu đoàn quân y các sư đoàn để chi viện trực tiếp; từ 4 đến 8 đội điều trị triển khai ở trong căn cứ hậu cần làm tuyến sau tiếp tục cứu chữa cơ bản rồi chuyển về bệnh viện hậu phương. HCCD đã tổ chức các đợt điều trị đột kích, thành lập các đoàn điều dưỡng ngay gần khu vực chiến trường để bồi dưỡng, nâng cao sức khỏe cho thương binh, bệnh binh giữ quân số chiến đấu, nên khi kết thúc chiến dịch chỉ còn phải chuyển về tuyến sau hơn 1000 thương binh, bệnh binh, hơn 11.683 thương binh, bệnh binh toàn chiến dịch.
Về công tác vận tải, đây là nội dung khó khăn nhất của HCCD, do không được biên chế vận tải cơ giới mà chỉ có lực lượng vận tải bộ và 4 tiểu đoàn dân công. Khắc phục khó khăn này, HCCD đã đề xuất Bộ tư lệnh chiến dịch cho sử dụng xe của các đơn vị binh chủng (chủ yếu là các xe kéo pháo) để vận chuyển và huy động bộ đội cùng tham gia vận chuyển vật chất từ kho chiến dịch tới khu vực chiến đấu của đơn vị trong giai đoạn chuẩn bị chiến đấu. Đồng thời đề nghị xe của tuyến vận tải quân sự chiến lược vươn cung lên phía trước. Chỉ đạo tuyến trung đoàn, sư đoàn tổ chức từ 4 đến 5 cung vận tải. Để bảo đảm đường vận chuyển, HCCD đã đề nghị Bộ tư lệnh chiến dịch cho lực lượng công binh sửa chữa gấp một số đoạn hư hỏng trên Đường 9 đã được giải phóng; mở thêm đường cơ giới từ Cha Ky qua A Dua vào làng Cọp. Ở phía nam Đường 9, ta mở đường từ Ha Sin Ko tới Tam Tanh vào động Cô Ác.
Về công tác bảo đảm kỹ thuật, đây là chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nên ngoài lực lượng bộ binh, chiến dịch đã sử dụng 136 khẩu pháo mặt đất từ 100mm trở lên có xe kéo; 150 khẩu pháo cao xạ 37mm, 57mm; 187 xe tăng, xe xích; 821 xe ô tô. Vật chất kỹ thuật tiêu thụ trong chiến dịch chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với các chiến dịch trước đó. Riêng đạn dược chiếm 20,9% tổng số vật chất tiêu thụ; xăng dầu 9,2%. Do tổ chức tốt nên khi bước vào chiến dịch, hệ số kỹ thuật xe pháo luôn bảo đảm hơn 80%. Trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch, các trạm sửa chữa xe và quân giới ở các căn cứ HCCD và các sư đoàn, trung đoàn đã sửa chữa kịp thời vũ khí, trang bị, xe pháo, góp phần giữ vững hệ số kỹ thuật đạt hơn 70%, riêng xe vận tải đạt 68% do phải hoạt động liên tục.
Công tác bảo đảm hậu cần-kỹ thuật cho Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh đã thể hiện sự chủ động, linh hoạt và sáng tạo, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch. Những bài học kinh nghiệm bảo đảm hậu cần-kỹ thuật chiến dịch tiếp tục được nghiên cứu, phát triển thành lý luận để vận dụng phù hợp trong điều kiện tác chiến mới hiện nay.
Đại tá ĐỖ ĐẮC YÊN