QĐND - Đến cuối năm 1967, cách mạng ở miền Nam nước ta đã có bước phát triển mới, là cơ sở để Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta quyết định chuyển sang thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định. Thực hiện chủ trương của Đảng và theo đề nghị của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch tiến công Đường 9-Khe Sanh, nhằm thu hút chủ lực địch chủ yếu là quân Mỹ ra đường 9, tiêu diệt một bộ phận, vây hãm và giam chân tiêu hao chúng, tạo điều kiện cho cuộc tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, nhất là Sài Gòn-Huế-Đà Nẵng, trực tiếp là Huế tiến công và nổi dậy thắng lợi.

Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh diễn ra từ 20-1-1968 đến 15-7-1968. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 4 sư đoàn bộ binh, 9 trung đoàn bộ binh, pháo binh, pháo phòng không và một số tiểu đoàn pháo phản lực A12, xe tăng, đặc công, công binh, thông tin, cùng các đơn vị vũ trang địa phương. Sau 177 ngày đêm, với 4 đợt tiến công và nhiều trận chiến đấu vây hãm, vây lấn, đánh địch giải tỏa, ta đã giành được thắng lợi chiến lược. Kết quả chiến dịch đã buộc quân Mỹ phải rút bỏ một căn cứ lớn quan trọng, đập vỡ một mảng tuyến phòng thủ đường số 9, góp phần tạo nên yếu tố bất ngờ và điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta trên toàn miền Nam tiến công và nổi dậy trong Tết Mậu Thân 1968.

Bộ đội Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 48, Sư đoàn 320) tiến công tiêu diệt điểm cao 425 trong chiến dịch Đường 9-Khe Sanh 1968. (Ảnh tư liệu chụp tại Bảo tàng Đường 9-Quảng Trị).

Thắng lợi của Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh là do ta đã vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch. Trên tuyến đường 9, địch bố trí thành các tuyến phòng thủ: Tuyến trước ở phía Đông, từ cứ điểm 31, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Quán Ngang đến miếu Bái Sơn; tuyến sau là Đông Hà, Cam Lộ, Ai Tử và thị xã Quảng Trị; tuyến giữa gồm các vị trí Tân Lâm, Cà Lu, điểm  cao 241; tuyến phía Tây có các cứ điểm Hướng Hóa, Làng Vây, Huội San, cụm cứ điểm Tà Cơn. Căn cứ vào thực lực của ta, địa hình và thế bố trí của địch, ta vận dụng cách đánh chiến dịch: Tiến công vây hãm quân địch trong căn cứ và đánh địch đến ứng cứu, thay quân, rút chạy; chuyển từ tác chiến chủ yếu bằng bộ binh trong các đợt hoạt động trước đó, sang tác chiến hiệp đồng binh chủng trong chiến dịch. Phương châm tác chiến chiến dịch là vây hãm, tiêu hao địch trong căn cứ, lấy đánh địch ngoài công sự là chính, chỉ đánh địch trong công sự khi cần thiết và chắc thắng. Đối với những cứ điểm riêng lẻ (cỡ tiểu đoàn), ta dùng phương pháp tiến công hiệp đồng binh chủng, dứt điểm trong thời gian ngắn. Điển hình là trận Làng Vây (đêm 6-2-1968), trận đánh hiệp đồng binh chủng đầu tiên ở chiến trường miền Nam, ta thực hiện tiến công đột phá vào trận địa phòng ngự địch bằng hiệp đồng binh chủng: Pháo binh chiến dịch bắn chuẩn bị, chi viện cho bộ binh xung phong, đánh quân địch rút chạy; công binh mở cửa cho bộ binh, xe tăng xung phong; xe tăng lần đầu tiên xuất trận, dẫn đầu bộ binh xung phong và hiệp đồng với bộ binh tiêu diệt địch trong cứ điểm.

Với ý định kéo quân Mỹ và giam chân một bộ phận quan trọng sinh lực địch tại tuyến phòng thủ đường số 9-Khe Sanh, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định chọn hướng Tây là hướng tiến công chủ yếu, hướng này địch yếu hơn, dễ bị bao vây cô lập; địa hình ở đây là rừng núi hiểm trở, tiếp giáp giữa hai vùng là dải đất trung du gồm nhiều dãy đồi bát úp kế tiếp nhau, hạn chế được nhiều chỗ mạnh của địch. Chọn hướng Tây ta tạo được yếu tố bất ngờ, giành lại thế chủ động để phối hợp với các chiến trường khác và phát huy được cách đánh sở trường để tiêu hao, tiêu diệt quận lỵ Hướng Hóa, cụm cứ điểm Huội San, điểm cao 832, bao vây cứ điểm Làng Vây, đánh viện ở Tây và Nam Tà Cơn. Hướng quan trọng là hướng Đông, diệt 1 đến 2 cứ điểm mạnh của địch trên đường 75; bao vây Cồn Tiên, Dốc Miếu, cắt giao thông đoạn Cam Lộ-Cà Lu; đánh viện ở khu vực Quán Ngang, Dốc Miếu và tây nam Đông Hà.

Ta đã vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật phù hợp với từng trạng thái quân địch. Trên cơ sở phân tích, so sánh lực lượng quân Mỹ có ưu thế lớn về binh chủng kỹ thuật, nhất là không quân và thiết giáp, ta vận dụng chiến thuật tiến công hiệp đồng binh chủng, dứt điểm trong thời gian ngắn (diệt cứ điểm Làng Vây), mở toang cánh cửa phía Tây, làm cho Trung đoàn 26 lính thủy đánh bộ Mỹ ở Tà Cơn rơi vào thế bị cô lập, tạo điều kiện thuận lợi để ta đưa binh khí kỹ thuật vào vây ép Tà Cơn. Tiến công cụm cứ điểm Tà Cơn, ta đã áp dụng chiến thuật vây hãm, rồi vây lấn, khống chế được một phần hoạt động của máy bay địch ở sân bay Tà Cơn, hạn chế sự vận chuyển tiếp tế, làm cho tinh thần binh lính địch sa sút. Ngoài những trận bao vây tiến công địch trong công sự vững chắc, ta vận dụng thành công chiến thuật chốt giữ cầm chân địch, tạo thế cho những trận vận động tiến công địch ở hướng đông hoặc chốt giữ, kết hợp vận động tiến công, đánh quân địch đổ bộ đường không ngay khi chúng mới tiếp đất hoặc tập kích ngay trong đêm khi địch lâm thời dừng lại trú quân và đánh quân địch tỏa ra lùng sục, với các thủ đoạn đánh gần, đánh đêm, thọc sâu, chia cắt, bao vây, vu hồi hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch.

Với sự linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng nghệ thuật tác chiến chiến dịch, ta đã giành thắng lợi mang ý nghĩa chiến lược. Bài học kinh nghiệm từ thắng lợi của Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh 1968 có giá trị sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn, làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam, đòi hỏi chúng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện mới, đáp ứng yêu cầu huấn luyện, tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai.

Đại tá ĐÀO VĂN ĐỆ