QĐND - Thượng tuần tháng 7-1965, Đại tá, Trưởng Trung tâm huấn luyện M.N Xi-gan-cốp (M.N.Shigankov) đã triệu tập tất cả các sĩ quan Xô-viết và thông báo về việc Lãnh đạo Trung tâm huấn luyện đã cùng với Bộ tư lệnh Phòng không-Không quân QĐND Việt Nam quyết định chuẩn bị hai tiểu đoàn tên lửa ra quân chiến đấu...
Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, chủ yếu do bộ khí tài SA-75 sẽ tham gia chiến đấu lại là bộ khí tài đã dùng nhiều năm cho huấn luyện, nhiều thông số kỹ thuật khác xa với tiêu chuẩn quy định, số lượng phụ tùng thay thế đem theo sang Việt Nam chỉ còn lại rất ít, số phụ tùng mới để thay thế chưa được chuyển từ Liên Xô sang Việt Nam. Tuy thế, quyết định của Bộ tư lệnh Phòng không-Không quân và Trung tâm huấn luyện vẫn được thực hiện. Tiểu đoàn 63 và Tiểu đoàn 64, Trung đoàn Tên lửa Phòng không 236 được chọn là đơn vị ra quân trận đầu và được trang bị bộ khí tài SA-75 nói trên. Tất cả các chuyên gia quân sự Liên Xô ở Trung tâm huấn luyện đều tập trung vào việc chuẩn bị khí tài đem đi chiến đấu.
 |
Các chuyên gia Liên Xô thuộc Tiểu đoàn 63 trước giờ hành quân ngày 22-7-1965. Người đứng giữa, không đội mũ là Trung tá, Tiểu đoàn trưởng Mô-da-ép. Ảnh tư liệu
|
Tuy khó khăn như thế, song với tinh thần “quyết tâm đánh thắng trận đầu”, các chuyên gia quân sự Liên Xô cùng với các học viên của Trung tâm huấn luyện đã làm việc không kể ngày đêm. Vì thế, chưa đầy một tuần lễ, bộ khí tài đã ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Những ngày đầu hạ tuần tháng 7-1965, hai tiểu đoàn hỏa lực thuộc Trung đoàn Tên lửa Phòng không đầu tiên của Việt Nam đã sẵn sàng hành quân ra trận địa. Trung tá Bô-rít Xtê-pa-nô-vích Mô-da-ép (Boris Stepanovich Mozaev) và Đại úy Nguyễn Văn Thân là đồng chỉ huy Tiểu đoàn 63; Trung tá Phê-đo Páp-lô-vích I-li-nu-khơ (Phedor Pavlovich Ilinukh) và Đại úy Nguyễn Văn Ninh là đồng chỉ huy Tiểu đoàn 64.
Các chuyên gia quân sự Liên Xô chỉ huy các đơn vị thuộc Tiểu đoàn 63 gồm có: Đại úy V.S.Bru-xni-kin (Valentin Sergeevich Brusnikin), Đại đội trưởng kỹ thuật; Đại úy Ê.I.Vô-rô-nin (Eduard Ivanovich Voronin), Đại đội trưởng đại đội bệ phóng tên lửa; Thượng úy Y.Xô-lô-ma-tin (Yuri Solomatin), Đại đội phó Đại đội bệ phóng tên lửa; chiến sĩ V.Pu-xvôi-tốp (Valentin Pusvoitov), kỹ thuật viên xe nguồn điện PMA; chiến sĩ Krê-mốc (Kremok), trắc thủ xe nguồn điện PMA; Thượng úy V.Sê-lê-xtốp (Vladimir Shelestov), kỹ thuật viên hệ xác định tọa độ; Thượng úy B.I.Cô-le-xních (Boris Ivanovich Kolesnik), kỹ thuật viên hệ lập lệnh; Thượng úy V.Tô-đô-ra-xcô (Valentin Todorasko), kỹ thuật viên hệ phát lệnh RPK (РПК); chiến sĩ Cô-bun-cô (Kobunko), trắc thủ RPK; Thượng úy V.M.Công-xtăng-ti-nốp (Vladislav Mikhailovich Konstantinov), kỹ thuật viên xe chỉ huy, sĩ quan điều khiển.
Các trắc thủ bám sát bằng tay (PC), gồm có: Binh nhất Y.Pa-pu-xốp (Yuri Papusov); Hạ sĩ A.Bôn-đa-ren-cô (Anatolyi Bondarenko); Binh nhất V.Ti-xen-cô (Vladimir Tisenko); Trắc thủ trạm ra-đa nhìn vòng (Ra-đa trinh sát và chỉ thị mục tiêu), Binh nhất V.Cu-bư-xép (Viktor Kubusev); Tiêu đồ viên Mu-xư-khin (Musukhin).
Ở tiểu đoàn 64, Đại úy R.N.I-va-nốp (Rudolph Nikolaevich Ivanov) là Đại đội trưởng đại đội kỹ thuật. Thượng úy Ô.Bôn-đa-rép (Oleg Bondarev) là sĩ quan điều khiển.
Từ đêm 22 đến đêm 23-7-1965, đơn vị hành quân chiếm lĩnh trận địa. Hành quân ban đêm là ưu việt nhất. Rạng sáng 24-7, đơn vị đã chiếm lĩnh xong trận địa. Đây là một địa hình không hoàn toàn bằng phẳng. Các xe đều được bố trí một cách lộ liễu. Chỉ triển khai 3 trong số 6 bệ phóng. Tiểu đoàn 64 triển khai cách trận địa Tiểu đoàn 63 khoảng 10-15km..
Lệnh của chỉ huy tiểu đoàn cho mở máy và vừa mới phát tín hiệu đã thấy trên màn hình có nhiều mục tiêu. Lúc đầu rất khó định hướng trong từng tình huống. Khi các mục tiêu đã bay vào vùng phóng thì điều kiện bắn lại không thuận lợi. Toàn đơn vị hạ quyết tâm không có quyền bắn trượt, đã bắn là phải trúng. Không khí trong xe rất ngột ngạt và nóng, nhất là số lượng người trong xe tăng gấp đôi do có cả Liên Xô và Việt Nam. Vì vậy, buộc phải tắt máy một số lần để khắc phục tình trạng trên. Buổi sáng 24-7 trôi qua. Đại tá Xi-gan-cốp đến thăm đơn vị. Ông hỏi thăm tình hình và tinh thần của cấp dưới, động viên cán bộ, chiến sĩ và trở về chỉ huy sở trung đoàn.
14 giờ 20 phút ngày 24-7, có lệnh mở máy; chỉ sau vài phút, kíp chiến đấu đã phát hiện một chấm lớn gồm 2 vạch nhỏ. Sau này, những người trong buồng máy mới hiểu mỗi vạch nhỏ là 2 máy bay “con ma”, bay sát nhau từng đôi một, chẳng khác nào đi diễu hành trong cuộc duyệt binh. Chắc chắn là nó sẽ lặp lại đội hình ở các giây tiếp theo. Lúc 14 giờ 25 phút, Thượng úy sĩ quan điều khiển V.M.Công-xtăng-ti-nốp ấn nút “phóng” 2 quả cách nhau 15 giây. Tên lửa thứ nhất trúng mục tiêu đi đầu. Tốp mục tiêu bắt đầu tách ra. Trắc thủ góc tà (trắc thủ PC) Y.Pa-pu-xốp báo cáo mục tiêu đang giảm góc tà. Thực tế quả đạn thứ hai đã bắn trúng mục tiêu thứ hai. Qua hệ thống loa truyền thanh, sĩ quan điều khiển Công-xtăng-ti-nốp báo cáo Trung tá Tiểu đoàn trưởng Mô-da-ép và toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong tiểu đoàn là mục tiêu đã bị bắn rơi. Trên màn hình của mình, kíp chiến đấu cũng quan sát được các đồng chí ở Tiểu đoàn 64 đã phóng tên lửa như thế nào. Họ đã hạ gục chiếc F-4C (con ma) thứ ba của địch. Như vậy, hai kíp chiến đấu của 2 tiểu đoàn đã hạ gục 3 trong 4 máy bay “con ma” bay vào vùng trời phía tây Hà Nội. Hai phi công Mỹ bị bắt sống. “Sau trận đánh, chúng tôi nhanh chóng thu hồi khí tài và cho khí tài ẩn nấp trong một khu rừng non cách đó không xa. Ban đêm, trên đường hành quân đến trận địa mới, Đại tá M.N.Xi-gan-cốp đã đến thăm và động viên chúng tôi. Đại tá rất hài lòng về kết quả trận đánh và chúc mừng thắng lợi đầu tiên của chúng tôi”, Đại tá V.M.Công-xtăng-ti-nốp nhớ lại.
NINH CÔNG KHOÁT (dịch)
Kỳ I - Trung tâm huấn luyện Bộ đội Tên lửa Phòng không tại Việt Nam
Kỳ III: Ngày truyền thống vẻ vang