QĐND - Về thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng tên lửa Cu-ba, sử sách đều ghi bắt đầu từ ngày 22-10-1962 khi Mỹ tuyên bố phong tỏa Cu-ba và kết thúc vào ngày 28-10-1962 khi Liên Xô và Mỹ ký hiệp định, theo đó, Mát-xcơ-va sẽ đình chỉ việc xây dựng căn cứ tên lửa ở Cu-ba và triệt thoái tên lửa khỏi Cu-ba.
Trong “tuần lễ đen tối” (nói theo lời Bộ trưởng Tư pháp Mỹ lúc đó là Rô-bớt Ken-nơ-đi), cả thế giới như căng lên cùng cuộc đối đầu giữa hai siêu cường Xô-Mỹ. Chính vào lúc Nhà Trắng tập trung tinh lực nghiên cứu đề ra đối sách, Krem-li đẩy nhanh tốc độ vận chuyển vũ khí sang Cu-ba và xây dựng căn cứ tên lửa ở Cu-ba. Trên phương diện ngoại giao, Mát-xcơ-va cũng thể hiện rõ thái độ cứng rắn. Ngày 18-10-1962, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, A. Grô-mi-cô (A. Gromyko), lần lượt hội kiến với Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi và Ngoại trưởng Mỹ D. Ra-xcơ (D. Rusk), tại Niu Y-oóc và một lần nữa lặp lại quan điểm của Mát-xcơ-va về việc ủng hộ Cu-ba. Khi đó, cả Tổng thống Ken-nơ-đi, Ngoại trưởng Ra-xcơ, Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Na-ma-ra (McNamara), Bộ trưởng Tư pháp Rô-bớt Ken-nơ-đi và Thứ trưởng Ngoại giao G. Pao-ơ (G. Power) đều biểu thị Mỹ không muốn tấn công vũ trang đối với Cu-ba, nhưng quyết không cho phép "Liên Xô biến hòn đảo này thành căn cứ quân sự tiến công Mỹ và các nước Mỹ La-tinh". Dù vậy, sự cứng rắn từ phía Mát-xcơ-va như chất xúc tác khiến Nhà Trắng ngày càng thiên về lựa chọn một quyết sách cứng rắn.
 |
Ảnh chụp từ trên cao ngày 4-12-1962 trên bờ biển Cu-ba: Tàu chở hàng Liên Xô Okhotsk chở tên lửa Ilyouchine IL 28 rút khỏi Cu-ba, theo thỏa thuận với Mỹ. Máy bay và trực thăng Mỹ đã bay tầm thấp để theo dõi sát hoạt động dỡ và chất tên lửa, trong khi các tàu chiến Mỹ cũng theo sát tàu Liên Xô chở tên lửa trở lại Liên Xô. Ảnh: AFP/tư liệu |
Sau cuộc họp bí mật của Nhà Trắng, các thành viên tiểu ban bí mật (sau này có tên: “Tiểu ban chấp hành Ủy ban An ninh Quốc gia”) cũng tham gia vào 4 cuộc thảo luận trong 4 đêm liên tục nhằm tập hợp ý kiến, đưa ra các phương án đối phó với việc Liên Xô đưa tên lửa sang Cu-ba. Đa số đồng ý với việc thiết lập một vành đai phong tỏa đặc biệt ngăn chặn Liên Xô đưa các thiết bị nguyên tử vào Cu-ba. Ngày 18-10-1962, Ken-nơ-đi quyết định thành lập Ủy ban chuyên môn phụ trách việc hoạch định những hành động đối phó cụ thể và chỉ một ngày sau, ủy ban này đã đưa ra được một loạt phương án khác nhau, chỉ đợi Tổng thống phê chuẩn.
Chiều 20-10-1962, lấy lý do sức khỏe không được tốt, Tổng thống Ken-nơ-đi rời Chi-ca-gô về Oa-sinh-tơn, lập tức cho triệu tập hội nghị lần thứ 505 Ủy ban An ninh Quốc gia tại phòng bầu dục ở Nhà Trắng. Ken-nơ-đi đưa ra những tấm ảnh chụp các bãi phóng tên lửa của Liên Xô ở Cu-ba, rồi giải thích rõ cho những người dự hội nghị về phương án phong tỏa Cu-ba. Qua thảo luận và nghe ý kiến của các thành viên Ủy ban An ninh Quốc gia cũng như sự tham vấn của Bộ tư lệnh không quân chiến lược, Ken-nơ-đi quyết định cho thực thi kế hoạch phong tỏa trên biển đối với Cu-ba.
Để giảm bớt mùi thuốc súng, thay vì dùng từ “phong tỏa”, kế hoạch này sử dụng từ “cách ly”. Trước khi công bố quyết sách quan trọng, đặt đất nước vào tình trạng khẩn cấp, chính phủ Mỹ đã khẩn trương hoàn thành công tác chuẩn bị, gồm: Liên lạc với các Đại sứ quán Mỹ ở nước ngoài, khởi thảo tuyên bố kiểm tra, cách ly tàu thuyền, thông báo cho Tổ chức các nước châu Mỹ, tăng viện binh lực cho căn cứ hải quân Goan-ta-na-mô… Đặc biệt, 6 giờ tối 22-10-1962, một tiếng trước khi Mỹ công bố lệnh phong tỏa Cu-ba, Ngoại trưởng Ra-xcơ triệu kiến khẩn cấp ông Đô-bri-nin (Dobrynin), Đại sứ Liên Xô tại Mỹ để trao bức thư của Tổng thống Ken-nơ-đi gửi nhà lãnh đạo Khơ-ru-xốp và tuyên bố đặt đất nước trong tình trạng khẩn cấp sắp được phát đi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoại trưởng Ra-xcơ từ chối đưa ra bất kỳ lời giải thích hay hồi đáp nào.
Trong bức thư gửi Khơ-ru-xốp, Ken-nơ-đi viết: “Nếu như xảy ra một sự kiện nào đó, nhằm bảo vệ mình và an ninh của các đồng minh, chúng tôi sẽ làm tất cả những gì phải làm. Ở Cu-ba đã xuất hiện căn cứ tên lửa và hệ thống vũ khí tiến công của Liên Xô, do đó, tôi phải nói với ngài rằng Mỹ quyết định phải loại bỏ tận gốc sự uy hiếp này ở Tây bán cầu. Hành động mà chúng tôi sắp sửa tiến hành chỉ là mức thấp nhất của việc loại bỏ tận gốc sự uy hiếp này ở Tây bán cầu”.
7 giờ tối 22-10-1962, Ken-nơ-đi bắt đầu bài phát biểu trên truyền hình. “Giống như những gì đã cam kết, chính phủ liên tục theo dõi chặt chẽ hành động quân sự của Liên Xô ở Cu-ba. Tuần trước, có rất nhiều bằng chứng không thể chối cãi cho thấy trên hòn đảo này đang xây dựng một hệ thống tên lửa mang tính tiến công. Căn cứ tên lửa này, ngoài việc đem tới sức mạnh vũ trang tấn công Tây bán cầu thì không có mục đích nào khác. Có được loại vũ khí tầm xa mang tính tiến công với sức sát thương quy mô lớn như vậy, Cu-ba sẽ lập tức biến thành căn cứ chiến lược quan trọng, tạo ra sự uy hiếp rõ ràng đối với người châu Mỹ và hòa bình, an ninh. Lần đầu tiên, người Liên Xô quyết định bí mật bố trí thứ vũ khí chiến lược này ngoài lãnh thổ của họ. Điều đó cho thấy họ cố ý thay đổi hiện trạng. Nếu chúng ta hy vọng bạn bè tin vào dũng khí và những lời cam kết của chúng ta, Mỹ phải quyết không để Liên Xô làm như vậy”, Tổng thống Ken-nơ-đi phát biểu.
Ngay sau đó, Tổng thống Ken-nơ-đi ra lệnh cho quân đội Mỹ vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, 24 tiếng đồng hồ sau đó lại ký văn kiện số 3504, tuyên bố bắt đầu từ 14 giờ (giờ GMT) ngày 24-10-1962, Mỹ sẽ tiến hành phong tỏa toàn diện đối với Cu-ba, bất cứ tàu thuyền nào tới Cu-ba đều phải chịu sự kiểm tra của các chiến hạm Mỹ, nếu chống lệnh sẽ bị bắn chìm. Một biên đội hải quân khổng lồ của Mỹ được tập kết ở biển Ca-ri-bê.
Một nửa số máy bay ném bom chiến lược của Mỹ sẵn sàng cất cánh. Những chiếc tàu ngầm trang bị tên lửa Polaris đã tiến vào trận địa tác chiến. Bài phát biểu trên truyền hình của Ken-nơ-đi được phát đi trên toàn thế giới bằng 38 loại ngôn ngữ khác nhau đã gây ra phản ứng mạnh mẽ. Mỹ bắt đầu hành động. Nguy cơ về một cuộc đối đầu nghiêm trọng kể từ sau Chiến tranh Triều Tiên, thậm chí là sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II đã lộ diện.
Đại tá, PGS. TS Trần Nam Chuân
Kỳ 1: Những chuyến tàu bí mật trên biển Ca-ri-bê
Kỳ 2: Manh nha cuộc khủng hoảng