QĐND - Nửa thế kỷ đã trôi qua, cuộc khủng hoảng tên lửa Cu-ba (tháng 10-1962) là sự kiện kịch tính nhất trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, từng đẩy Mát-xcơ-va và Oa-sinh-tơn đến bên bờ của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Nhưng rốt cuộc, ít người biết được nguyên nhân sâu xa gây ra nó.
Kì 1: Những chuyến tàu bí mật trên biển Ca-ri-bê
Chiến tranh Lạnh bắt đầu được một thời gian, Trung Âu và khu vực Viễn Đông trở thành mặt trận giằng co, đấu tranh chủ yếu của hai phe Xô, Mỹ. Trong khi đó, đứng trước sự uy hiếp của Mỹ, Cu-ba vẫn kiên cường. Nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Mát-xcơ-va, ngày 3-7-1960, lãnh tụ Cu-ba, Phi-đen Ca-xtơ-rô (Fidel Castro), tuyên bố từ nay về sau sẽ là một bộ phận cấu thành của phe XHCN. Ngày 2-9 năm đó, trong một cuộc mít tinh với sự tham gia của hàng trăm nghìn người, Phi-đen đã đọc bản “Tuyên ngôn La Ha-ba-na” nổi tiếng, kịch liệt chỉ trích chính sách mở rộng xâm lược của Mỹ ở Mỹ La-tinh, tuyên bố “Mỹ La-tinh là của người Mỹ La-tinh”.
 |
Lãnh tụ Cu-ba Phi-đen Ca-xtơ-rô nói chuyện với các thành viên của Các lực lượng vũ trang Cu-ba gần bãi biển Hi-rôn. Ảnh tư liệu
|
Từ sự kiện Vịnh Con lợn
Tháng 1-1961, Mỹ cắt quan hệ ngoại giao với Cu-ba. Quan hệ giữa Mỹ và Cu-ba căng thẳng cực độ. Ngày 20-1-1961, Giôn Ken-nơ-đi (John Kennedy) lên thay Đ. Ai-xen-hao (Dwight Eisenhower) làm tổng thống thứ 35 của Mỹ. Tình hình vẫn không có gì thay đổi bởi trong quá trình tranh cử, Ken-nơ-đi đã biểu thị một cách rõ ràng rằng Mỹ sẽ "không để cho Liên Xô biến Cu-ba thành căn cứ của mình trên biển Ca-ri-bê". Tiếp quản Nhà Trắng, Ken-nơ-đi càng cho thúc đẩy kế hoạch ủng hộ các phần tử lưu vong Cu-ba lật đổ chính quyền của Phi-đen. Theo Đô-bri-nin (Dobrynin), nhà ngoại giao kỳ cựu của Liên Xô, Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) và Lầu Năm Góc đã lên kế hoạch bí mật mang tên Mangosta với mục tiêu là làm suy yếu và sụp đổ hoàn toàn chính quyền của Phi-đen.
Ngày 15-4-1961, ba chiếc máy bay B-26 sơn cờ hiệu Cu-ba mang theo bom, tên lửa và súng máy tấn công một số sân bay chủ yếu gần La Ha-ba-na như ở Ciudad Libertad, San Antonio de Los Banos… Sau đó, hai trong ba chiếc B-26 hạ cánh xuống Phlo-ri-đa (Mỹ), các phi công bước xuống, tự xưng là người của không quân Cu-ba đào tẩu, yêu cầu được tỵ nạn chính trị. Chiếc B-26 còn lại bị pháo cao xạ Cu-ba bắn bị thương, buộc phải hạ cánh xuống Gia-mai-ca. Kỳ thực, ba chiếc máy bay này không giống những chiếc máy bay không quân Cu-ba sử dụng. Trên thực tế, nó cất cánh từ một căn cứ ở trong lãnh thổ Goa-tê-ma-la và do những phần tử lưu vong điều khiển. Chúng muốn tiêu diệt hoàn toàn lực lượng không quân của Cu-ba, nhưng đã không thể thực hiện.
Cũng đúng lúc này, hơn 1.200 phần tử lưu vong Cu-ba tổ chức thành một đội đột kích viễn chinh, lên 4 chiếc tàu rời cảng ở Ni-ca-ra-goa. Chúng mang theo 5 chiếc xe tăng, nhiều pháo 75 mm và súng chống tăng, sáng sớm 17-4 đổ bộ lên bãi biển Gi-ron ở trung Nam Bộ Cu-ba. Ngoài ra, các phần tử lưu vong Cu-ba còn sử dụng máy bay để thả xuống Cu-ba 175 tên lính dù.
Tuy nhiên, lực lượng này không ngờ, vừa chân ướt chân ráo lên bờ đã bị tan tác bởi lưới lửa phục kích của các lực lượng vũ trang Cu-ba. Kết quả: 82 tay súng thiệt mạng, gần 1.200 tay súng bị bắt sống, chỉ có khoảng 50 người lóp ngóp trên biển được tàu Mỹ cứu vớt mang đi. Đây chính là Sự kiện bãi biển Gi-ron hay còn gọi là Sự kiện Vịnh Con lợn.
Sự hoài nghi của người Mỹ
Sau sự kiện bãi biển Gi-ron, chính sách phong tỏa của Mỹ đối với Cu-ba càng ngặt nghèo hơn. Ngoài việc cấm vận mậu dịch toàn diện, Oa-sinh-tơn tiếp tục sử dụng biện pháp cô lập để ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản kiểu Phi-đen ở Mỹ La-tinh và không từ bỏ ý định can thiệp vũ trang. Vì thế, Lầu Năm Góc thường xuyên phái máy bay U-2 do thám Cu-ba, chiêu mộ 150.000 quân dự bị, cho phép những phần tử Cu-ba lưu vong gia nhập quân đội Mỹ, tổ chức diễn tập quân sự quy mô lớn ở biển Ca-ri-bê…
Sau sự kiện bãi biển Gi-ron, Ni-ki-ta Khơ-ru-xốp (Nikita Khrushchev), người đang giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô trước đây, đã hai lần viết thư cho Ken-nơ-đi nói rõ với người Mỹ rằng Liên Xô phải cung cấp cho Cu-ba mọi sự viện trợ cần thiết. Trên thực tế, sự kiện bãi biển Gi-ron đã cho thấy người Mỹ sẽ không thể chấp nhận được sự tồn tại của chính quyền Phi-đen. Và điều này có ảnh hưởng lớn tới chiến lược của Liên Xô trong thời điểm đó.
Tháng 7-1962, Phi-đen phái Ra-un Ca-xtơ-rô (Raul Castro) và Che Ghê-va-ra (Che Guevara) dẫn đầu đoàn đại biểu Cu-ba thăm Liên Xô với mục đích chủ yếu là yêu cầu Liên Xô có biện pháp giúp Cu-ba tránh khỏi sự xâm lược của Mỹ. Trong chuyến thăm này, Cu-ba và Liên Xô đã đạt được một hiệp định đàm phán quân sự. Theo đó, Liên Xô sẽ cung cấp viện trợ quân sự cho Cu-ba và cử chuyên gia quân sự tới đảo quốc này. Nội dung cụ thể của hiệp định không được công bố, nhưng sau đó Mỹ phát hiện, số lượng tàu Liên Xô chở vật tư đi tới biển Ca-ri-bê tăng mạnh, chỉ trong hai tháng 7 và 8-1962 đã là hơn 100 lượt. Đặc biệt, những chiếc tàu này sau khi cập cảng Cu-ba, hàng hóa đều do người Liên Xô bốc dỡ.
Điều này đã làm cho Mỹ nghi ngờ. Khi đó, ở nước Mỹ cũng loan đi tin có 16 tàu hàng của Liên Xô chở theo 3000-5000 nhân viên kỹ thuật và rất nhiều cấu kiện tên lửa mới đã tới Cu-ba. Tuy chưa được kiểm chứng, nhưng nó đã làm cho người Mỹ cảm thấy bất an. Ngay lập tức, Mỹ tăng cường giám sát đường không và đường biển đối với Cu-ba, chụp ảnh tất cả những tàu Liên Xô đi vào vùng biển Cu-ba. Bắt đầu từ tháng 8-1962, việc nhân viên và trang bị của Liên Xô được đưa vào Cu-ba luôn nằm trong sự quan tâm đặc biệt của Nhà Trắng. Cuối tháng 8 năm đó, Che Ghê-va-ra dẫn đầu đoàn đại biểu thứ hai của Cu-ba sang thăm Mát-xcơ-va.
Ngày 2-9-1962, hai nước ra thông báo cho biết, Liên Xô đồng ý với yêu cầu cung cấp vũ khí và chuyên gia kỹ thuật cũng như huấn luyện cho lực lượng vũ trang của Cu-ba. Sau đó hai ngày, ngày 4-9-1962, Nhà Trắng ra tuyên bố về việc Liên Xô thiết lập trận địa tên lửa phòng không ở Cu-ba và tàu chở tên lửa của Liên Xô. Người Mỹ không thể chấp nhận được cảnh những quả tên lửa đất đối đất và các loại vũ khí tiến công khác được bố trí ở Cu-ba.
Đứng trước sự phản ứng quyết liệt của Mỹ, ngay ngày hôm đó, Khơ-ru-xốp đã viết thư gửi Ken-nơ-đi, bảo đảm rằng trước khi cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ diễn ra sẽ không có bất cứ hành động gì làm phức tạp hóa tình hình quốc tế và khiến quan hệ hai nước căng thẳng thêm. Một tuần sau, chính phủ Liên Xô ra tuyên bố: Liên Xô không cần thiết phải di chuyển vũ khí tiến công chiến lược sang nước khác như Cu-ba. Liên Xô có khả năng chi viện cho bất cứ nước nào yêu chuộng hòa bình ngay từ lãnh thổ của mình.
------
(còn nữa)
Đại tá, PGS. TS Trần Nam Chuân