Tuy nhiên, “tấm áo” pháp lệnh đang ngày càng chật chội hơn trước lớn mạnh của ngành CNQP và sự thay đổi của thực tiễn...
Bó buộc khi thực hiện chính sách lưỡng dụng
Phát triển CNQP theo hướng lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) là chủ trương từ rất sớm của Đảng và Nhà nước ta. Từ ngày 22-1-1974, tại Hội nghị lần thứ 22, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khi ban hành Nghị quyết số 229-NQ/TW về nhiệm vụ, phương hướng khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc trong hai năm 1974-1975 đã dành hẳn một mục nói về củng cố quốc phòng và huy động hợp lý lực lượng quốc phòng và việc xây dựng kinh tế. Trong đó nêu rõ: “Kết hợp khả năng của CNQP với công nghiệp dân dụng, sử dụng một phần khả năng của CNQP phục vụ kinh tế”. Đồng thời, khi phát triển công nghiệp dân dụng, Đảng, Nhà nước ta cũng rất chú ý tới khả năng huy động công nghiệp dân dụng tham gia CNQP khi có tình huống xảy ra để bảo vệ đất nước.
Pháp lệnh CNQP năm 2003 đã xác định kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KT-XH với tăng cường quốc phòng. Tuy nhiên, những quy định cụ thể tại pháp lệnh này cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác vẫn chưa đủ để khuyến khích phát triển CNQP theo hướng lưỡng dụng. Trong khi đó, thực tế ở các cơ sở CNQP, việc sản xuất theo đơn đặt hàng của Bộ Quốc phòng chỉ đáp ứng khoảng 30% công suất thiết kế. Các cơ sở CNQP cũng không thể vì đơn đặt hàng quốc phòng trong thời bình ít đi mà cắt giảm quy mô, bởi công suất các dây chuyền CNQP được đầu tư để phục vụ nhu cầu sản xuất cho thời chiến, nếu cắt giảm quy mô thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời chiến. Việc chưa tận dụng được năng lực đã được đầu tư cho nhiệm vụ quốc phòng để sản xuất các mặt hàng kinh tế phục vụ sự phát triển KT-XH của đất nước, đồng thời giúp duy trì năng lực sản xuất cho các cơ sở CNQP là rất lãng phí về nguồn lực.
“Các quy định hiện nay chưa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp quốc phòng chủ động thực hiện kế hoạch sản xuất hàng kinh tế. Vì thế, chúng tôi rất bị động trong việc thực hiện tiến độ cam kết với đối tác, khách hàng. Đây là điểm bất lợi rất lớn, làm giảm sức hút của các doanh nghiệp quốc phòng với đối tác, khách hàng”, Đại tá Nguyễn Phi Trường, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Cơ khí chính xác 29 (Nhà máy Z129), Tổng cục CNQP nói.
Ngược lại, sự phát triển của khu vực công nghiệp dân sinh hiện nay rất nhanh, nhưng chúng ta mới huy động được doanh nghiệp ở một số lĩnh vực nhất định tham gia hoạt động CNQP. Quy định về điều kiện, thủ tục tham gia hoạt động CNQP theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã hết hiệu lực theo quy định của Luật Đầu tư. “Cả Pháp lệnh CNQP và Pháp lệnh ĐVCN đều đang có những quy định không còn phù hợp với thực tiễn, gây nhiều khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp CNQP cũng như của cả các doanh nghiệp bên ngoài có liên quan. Việc đưa công nghiệp dân sinh tham gia sản xuất quốc phòng cũng gặp nhiều khó khăn. Vì thế, các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực đầu tư và việc tiếp cận khoa học công nghệ cao trong sản xuất vũ khí phục vụ cho các lực lượng vũ trang còn rất khó khăn”, Đại tá Trần Thế Sơn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Đóng tàu Hồng Hà (Nhà máy Z173), Tổng cục CNQP cho biết.
Đặc biệt, trong hội nhập quốc tế, CNQP ở nước ta chủ yếu là nhập khẩu vũ khí, trang bị từ các nước do Pháp lệnh CNQP chưa quy định cụ thể, chi tiết và có cơ chế khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu vũ khí, trang bị quân sự.
Mô hình hoạt động chưa có sự thống nhất
Hầu hết các đơn vị cơ sở CNQP khi chúng tôi tìm hiểu, trao đổi đều cho rằng, bất cập của quy định hiện hành là sự thiếu thống nhất trong mô hình hoạt động của cơ sở CNQP. Các doanh nghiệp CNQP vừa chịu sự điều chỉnh của các quy định về hành chính quân sự, vừa chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, dẫn tới mô hình hoạt động, cơ chế hạch toán kinh tế thiếu thống nhất, đồng bộ.
“Việc phải thực hiện tư cách pháp nhân kép, vừa là doanh nghiệp nhà nước thực hiện theo Luật Doanh nghiệp, vừa là doanh nghiệp quốc phòng hoạt động theo Pháp lệnh CNQP đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển CNQP cũng như nhiệm vụ phát triển Nhà máy”, Đại tá Nguyễn Phi Trường trăn trở.
Theo Đại tá Nguyễn Phúc Linh, Viện trưởng Viện Vũ khí, Tổng cục CNQP, các cơ sở nghiên cứu CNQP chủ yếu vẫn là đơn vị sự nghiệp khoa học-công nghệ (KHCN), chưa có cơ chế tạo nguồn lực để thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp KHCN theo định hướng chung của Đảng và Nhà nước. Cùng với đó, chính sách thúc đẩy KHCN trở thành động lực cho phát triển CNQP, an ninh; sự gắn kết giữa nghiên cứu thiết kế với sản xuất, sửa chữa còn chưa chặt chẽ, nhiều bất cập. Việc chuyển đổi sang mô hình tự chủ của các viện nghiên cứu và việc áp dụng Luật Sở hữu trí tuệ trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo mới vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ còn khó khăn. Điều này làm hạn chế sự đổi mới, sáng tạo trong hoạt động KHCN, chưa tạo động lực để chú trọng đến tính lưỡng dụng của sản phẩm nghiên cứu, chưa phát huy được vai trò động lực then chốt để nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các cơ sở nghiên cứu CNQP.
Bất cập trong cơ chế thu hút nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nền tảng để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh sản phẩm quốc phòng. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra rất nhanh chóng, nếu thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ dẫn tới nguy cơ tụt hậu ngày càng xa ngay trong lĩnh vực CNQP với các nước trên thế giới cũng như trong lĩnh vực công nghiệp nói chung.
Trong khi đó, quy định hiện hành chưa tạo ra được cơ chế, chính sách đủ hấp dẫn trong công tác thu hút, giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ CNQP. Chia sẻ về một kỷ niệm không vui khi còn đảm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Chính trị Nhà máy Z121, Tổng cục CNQP trước đây, Đại tá Nguyễn Phi Trường kể: Lúc bấy giờ, Nhà máy Z121 được cấp trên điều động 1 kỹ sư trẻ do Quân đội gửi đào tạo ở Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Đó là một kỹ sư tốt nghiệp loại giỏi nên được ưu tiên phân công về Z121 là nhà máy lớn nhất, lương cao nhất trong các nhà máy thuộc Tổng cục CNQP khi đó. Nhưng ngay sau khi lên Nhà máy được 1 ngày, anh kỹ sư trẻ đã gửi thư xin lỗi đơn vị, xin ra quân vì hoàn cảnh gia đình nên không thể ở lại phục vụ Quân đội được. Về thăm nhà kỹ sư trẻ ấy ở tận Hà Tĩnh thì thấy hoàn cảnh gia đình cực kỳ khó khăn. Nhà chỉ có 2 gian, 1 cái giường ọp ẹp, quần áo của cả nhà phải treo trên sào vì không có tủ đựng. Gia cảnh nghèo túng quá buộc anh kỹ sư ấy phải lựa chọn làm việc ở các đơn vị ngoài Quân đội để có thu nhập cao hơn, có nhiều điều kiện hơn giúp đỡ gia đình (kỹ sư giỏi Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội khi ấy được doanh nghiệp ngoài Quân đội đến tận trường săn đón).
Đại tá Hoàng Thanh Sơn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Cơ điện và Vật liệu nổ 31 (Nhà máy Z131), Tổng cục CNQP cho biết: Hiện nay, Nhà máy đang phải tuyển dụng rất nhiều lao động từ những ngành nghề mà các trường trong Quân đội chưa đào tạo được. Những người được tuyển dụng từ các trường ngoài Quân đội cũng có mong muốn được phục vụ lâu dài trong Quân đội. Tuy nhiên, do không được đào tạo từ các trường trong Quân đội ra nên họ phải trải qua thời gian thực hiện thủ tục rất dài, bắt đầu từ việc ký hợp đồng lao động theo năm tới ký hợp đồng lao động dài hạn, sau đó mới chuyển công nhân, viên chức quốc phòng, rồi chuyển quân nhân chuyên nghiệp... Không ít người giỏi không đủ kiên trì theo đuổi, trong khi các doanh nghiệp bên ngoài thì liên tục mời gọi với mức thu nhập hấp dẫn hơn rất nhiều. Họ buộc phải dứt áo ra đi. Việc không giữ chân được nhân lực chất lượng cao tạo ra rất nhiều khó khăn cho việc triển khai thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh của Nhà máy Z131 nói riêng và các nhà máy trong Quân đội nói chung.
“Mức lương bình quân cho người lao động CNQP hiện nay là bậc 5/7, tương đương với khoảng 300.000 đồng/ngày thì rất khó khăn, chưa động viên được nguồn lực trí tuệ cũng như sức cống hiến của người lao động. Anh em vừa làm việc, vừa phải lo cơm áo gạo tiền bằng việc khác nên chưa toàn tâm, toàn ý cho công tác. Nhà máy đã tuyển dụng, đào tạo nhiều người giỏi nhưng vì không yên tâm công tác nên nhiều người giỏi đã xin ra ngoài”, Đại tá Hoàng Trung Kiên, Giám đốc Nhà máy A45, Quân chủng Phòng không-Không quân cho biết.
Còn rất nhiều bất cập trong quy định của Pháp lệnh CNQP và Pháp lệnh ĐVCN được các cơ sở CNQP phản ánh, cần được sửa đổi, bổ sung và quan trọng nhất là được quy định ở cấp độ luật, thay vì ở cấp độ pháp lệnh, để ngành CNQP phát triển tương xứng với tiềm năng, khả năng và nhu cầu của nước ta trong tình hình mới.
(còn nữa)
GIA MINH - CHIẾN THẮNG