QĐND Online - Được coi là “mắt cú vọ” giúp máy bay của không quân Mỹ có thể tiến hành không kích Miền Bắc Việt Nam bất kể ngày đêm, điều kiện thời tiết, trạm radar dẫn đường hàng không đặt ở đỉnh núi Pa Thí (Lào), được quân đội Mỹ và ngụy quân bảo vệ nghiêm ngặt. Địch tự tin với địa hình hiểm trở và lực lượng bảo vệ mặt đất tương đối mạnh, trạm căn cứ Pa Thí (mật danh Lima site 85) sẽ là bất khả xâm phạm, nhưng chúng không ngờ vị trí này lại bị 4 máy bay vận tải cánh quạt An-2 của Trung đoàn 919, Quân đội nhân dân Việt Nam bất ngờ tập kích, phá hủy hoàn toàn trạm radar chiến thuật của chúng.

Địa điểm chiến lược của căn cứ radar Pa Thí

Đầu năm 1964, tổng thống Johnson đồng ý bắt đầu dùng không quân đánh phá miền Bắc. Chúng đã dựng lên Sự kiện vịnh Bắc Bộ (tháng 8-1964) để làm cái cớ thực hiện âm mưu này. Tới năm 1965, Mỹ tiếp tục leo thang chiến tranh với đỉnh điểm chiến dịch không kích Rolling Thunder (Sấm Rền). Ở thời điểm này, mỗi tháng có tới 12.000 lượt máy bay quân sự Mỹ đánh phá miền Bắc.

Để dẫn đường cho các đợt không kích, Mỹ đã xây dựng một loạt trạm radar ở Cần Thơ, Đà Nẵng. Tới giữa tháng 4-1966, Mỹ xây dựng thêm 6 trạm radar mới ở miền Nam và Thái Lan. Nhờ mạng lưới radar nói trên, Mỹ đã kiểm soát toàn bộ vùng trời miền Nam, phần lớn Lào và một phần miền Bắc.

Toàn cảnh căn cứ radar của quân Mỹ đặt trên đỉnh Pa Thí.

 

Tuy nhiên, chưa thỏa mãn với những gì đã có, Mỹ tiếp tục tìm kiếm địa điểm xây dựng trạm radar dẫn đường mới ở Bắc Lào với mục đích cung cấp bao quát toàn bộ vùng trời miền Bắc trong mọi điều kiện thời gian, thời tiết. Địa điểm được địch chọn là đỉnh Phu Pha Thi (Pa Thí), một trong những ngọn núi cao nhất tỉnh Sầm Nưa. Khi đặt trạm radar trên đỉnh núi này, Mỹ ngụy có thể bao quát toàn bộ hoạt động lên xuống tại các sân bay ở Miền Bắc.

Đỉnh núi Pa Thí có độ cao 1.186m so với mực nước biển, nằm cách thị xã Sầm Nưa khoảng 50km. Điểm đặc biệt của ngọn núi này là không có đường lên đỉnh núi. Để xây dựng căn cứ radar dẫn đường trên núi Pa Thí, toàn bộ 150 tấn thiết bị đều được không quân Mỹ dùng trực thăng vận chuyển từ Udorn. Trạm radar mới trên đỉnh núi Pa Thí được trang bị hệ thống radar TACAN (Tactical Air Control and Navigation) MSQ-77, sau đó tới giữa năm 1967, nơi đây còn được triển khai thêm hệ thống radar TSQ-81 để tăng thêm tầm kiểm soát.

Nhận thấy tầm quan trọng của trạm radar đóng tại đỉnh núi Pa Thí, ngoài việc ngụy trang trạm radar như một căn cứ đồn trú thông thường, Mỹ ngụy còn cắt cử thêm 2.500 lính phỉ Vàng Pao đóng quân ở chân núi với hệ thống công sự kiên cố liên hoàn. Các con đường dẫn lên núi đều được ngăn chặn bằng dây thép gai và bãi mìn dầy đặc. Toàn bộ hoạt động tiếp tế cho căn cứ này đều thông qua trực thăng.

Dùng máy bay vận tải bất ngờ tập kích

Trước tình hình quân địch triển khai “mắt cú vọ” tại Pa Thí, cuối năm 1967, cấp trên giao nhiệm vụ cho Trung đoàn  919 tiến công căn cứ quân sự hỗn hợp này.

Sau khi nhận nhiệm vụ, Trung đoàn 919 cử một tổ đi nghiên cứu, chuẩn bị chiến trường do đồng chí Nguyễn Văn Ba, Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng phụ trách. Đoàn trinh sát đã tìm hiểu nắm rõ địa hình núi Pa Thí, quy luật hoạt động của địch quân và đặc biệt là vị trí triển khai các trạm radar. Trung tuần tháng 12-1967, sau khi hoàn tất việc trinh sát địch đóng tại Pa Thí, Thường vụ Đảng uỷ và ban chỉ huy Trung đoàn 919 lên kế hoạch và phương án tấn công cứ điểm quan trọng này.

Do mục tiêu căn cứ nhỏ, nằm ở xa căn cứ xuất phát của ta và ở ngay trong lòng địch. Nên để chắc thắng, trên đường bay, máy bay của ta phải cơ động bay thấp luồn lách núi để tránh địch phát hiện, tạo thế bất ngờ. Ngoài ra, đây là trận đánh mục tiêu mặt đất đầu tiên của không quân vận tải, nên các phi công được chọn phải là người kỳ cựu. Được Bộ Tư lệnh chấp thuận, Trung Đoàn 919 đã chọn ra 4 tổ bay chính và 2 tổ bay dự bị sử dụng máy bay An-2 do tiểu đoàn trưởng Phan Như Cẩn làm biên đội trưởng. Các đội bay sau đó đã tích cực luyện tập chuẩn bị để có lệnh là cất cánh ngay.

Tổ 1 máy bay số hiệu 664, có mật danh 354 gồm: Phan Như Cẩn - chỉ huy biên đội và Phạm Thanh Tâm, Trần Sĩ Tiêu; Tổ 2 máy bay số hiệu 665, có mật danh 355 gồm: Trần Hữu Quý, Phạm Văn Phán, Lê Xuân Kịch; Tổ 3 máy bay mang số hiệu 666, có mật danh 356 gồm: Nguyễn Văn Ngộ, Ngô Văn Hùng, Nguyễn Mạnh Kiểu, Trần Chinh; Tổ 4 máy bay số hiệu 671, có mật danh 357 gồm: Đinh Công Giểng, Đinh Văn Niêm, Nguyễn Hữu Hùng. Trong khi đó, hai tổ bay dự bị gồm: Tổ 1, có các đồng chí Huân, Canh, Thao; Tổ 2 có các đồng chí Liên, Bái, Hoàng.

Ngày 12-1-1968, nhận được lệnh chiến đấu, các máy bay An-2 được chuẩn bị vũ khí và kỹ thuật sẵn sàng cất cánh. Mỗi tổ bay mang theo 32 đạn rocket 57 mm và 12 quả đạn cối 120 mm.

Từ địa điểm tập kết ở sân bay Gia Lâm, Hiệp Hoà, Nội Bài, vào lúc 11 giờ 43 phút cùng ngày, toàn bộ các đơn vị cất cánh bay theo hướng Gia Lâm - Hoà Bình - Mai Châu - Sốp Hào - Mường Hàm - Mường Út - Pa Thí. Để đảm bảo bí mật, các tổ bay tắt radio liên lạc, bay thấp theo các mốc đã định trước trên bản đồ. Khi tới Mường Út, Biên đội trưởng phát lệnh cho các tổ bay lên độ cao 2.200m, bay bằng để chuẩn bị vào khu vực chiến đấu. Tới 13 giờ 7 phút, sau khi phát hiện mục tiêu và hiệu chỉnh phi đội, biên đội trưởng Phan Như Cẩn phát lệnh tấn công.

Tổ bay 354 tấn công trước. Toàn bộ 32 đạn rocket được phóng trúng mục tiêu làm khói lửa bao trùm lên căn cứ địch. Sau khi bắn rocket, 354 cải bằng và ném 12 quả đạn cối xuống các vị trí trong căn cứ. Các tổ bay khác căn cứ vào vệt khói bốc lên từ căn cứ địch nối nhau vào công kích. Căn cứ Pa Thí chìm trong khói lửa. Toàn bộ 4 tổ bay đều thoát ly an toàn.

Để tránh địch truy kích, khi bay trở về, các tổ bay đều hạ độ cao, bay thấp, nhưng do địa hình hiểm trở, 2 tổ bay 664 và 665 đã gặp nạn. Biên đội trưởng Phan Như Cẩn hy sinh.

Sau vụ tấn công, căn cứ vào các nguồn tin thu thập được từ phía địch, hệ thống radar trên đỉnh núi Pa Thí và 2 máy bay trực thăng trong căn cứ bị phá hủy; một số kho tàng và địch quân bị cháy và tiêu diệt. Do thiệt hại nặng và tính bí mật chiến lược của căn cứ Pa Thí không còn, không lâu sau đó, Mỹ đã quyết định bỏ căn cứ radar này.

Tuấn Sơn (sưu tầm)