QQĐND - Từ năm 1971, quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhằm “Giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược năm 1972”.

Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết “Đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả 3 vùng ở miền Nam”; “Tranh thủ thời gian, khắc phục khó khăn, nhược điểm xây dựng thế và lực của ta trên chiến trường lên nhanh hơn nữa, kịp thời nắm lấy thời cơ…”.

Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ Quốc phòng dự định tấn công trên 3 hướng: Miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị Thiên. Trị Thiên được Bộ xác định là hướng tiến công chiến lược chủ yếu của bộ đội chủ lực năm 1972, nhằm tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự của địch ở Trị Thiên, giải phóng phần lớn địa bàn Trị Thiên.

Cuối tháng 3 năm 1972, Bộ tư lệnh chiến dịch do đồng chí Lê Trọng Tấn - Phó tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, đồng chí Lê Quang Đạo - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy. Đồng chí Văn Tiến Dũng được Bộ chỉ định làm đại diện Quân ủy Trung ương ở hướng chiến dịch này.

Bộ tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm trong thời gian từ 20 đến 25 ngày, tiến công tiêu diệt cho được 4 đến 5 trung đoàn địch, và thực hiện nổi dậy giải phóng Quảng Trị, sau đó phát triển vào hướng Trị Thiên - Huế. Đây là một chiến dịch có lực lượng tham gia rất lớn, tác chiến hiệp đồng binh chủng, diễn ra trên một không gian rộng, với thời gian tương đối dài.

Quảng Trị là nơi đối đầu lịch sử, gồm những căn cứ quân sự mạnh nhất của địch, ở ngay vùng giới tuyến quân sự được chọn làm mục tiêu tấn công trong giai đoạn đầu của chiến dịch.

Quân ta truy kích địch, giải phóng Quảng Trị năm 1972

Lực lượng địch ở đây gồm có: 2 sư đoàn bộ binh tăng cường, 4 tiểu đoàn và 94 đại đội bảo an, 5 đại đội pháo binh (gồm 258 khẩu pháo), 3 thiết đoàn xe tăng và thiết giáp. Trên tuyến phòng thủ cơ bản, địch chiếm các cao điểm từ Cồn Tiên, Dốc Miếu, Động Toàn, Động Ông Do, điểm cao 367 hình thành một hệ thống vành đai phòng thủ vững chắc, bao bọc lấy vùng đồng bằng và các thị xã, thị trấn.

Về phía ta, trong giai đoạn đầu của chiến dịch này, Bộ tư lệnh chiến dịch sử dụng 3 sư đoàn bộ binh cơ động chiến lược, một số trung đoàn độc lập địa phương và một bộ phận lớn các binh chủng kỹ thuật. Cụ thể là Sư đoàn 308 tiến công quân địch trên hướng Bắc, Sư đoàn 324 tiến công quân địch ở Bắc và Nam sông Quảng Trị, Sư đoàn 304 tiến công theo hướng phòng thủ phía Tây của địch. Hướng tây Quảng Trị được Bộ tư lệnh chọn là hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch. Lực lượng của địch ở hướng này gồm: Trung đoàn 56 ở cao điểm Ba Hồ, Đầu Mầu; sở chỉ huy của địch ở điểm cao 241 và lữ đoàn lính thủy đánh bộ ngụy ở cao điểm Động Toàn, điểm cao 356, sở chỉ huy của chúng đặt ở Mai Lộc.

Trong chiến dịch này, Sư đoàn 304 được tăng cường Trung đoàn pháo binh 38, Trung đoàn cao xạ 241, 1 đại đội xe tăng, 1 tiểu đoàn công binh, 2 trung đội súng phun lửa và trinh sát hóa học. Sư đoàn có nhiệm vụ tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ phía Tây của địch tiêu diệt Động Toàn, Ba Hồ, Đầu Mầu, núi Kiếm bao vây tiến tới tiêu diệt cứ điểm 241, rồi tiến tới tiêu diệt sân bay Ái Tử.

Theo nhận định của ta, trong quá trình tiến công vòng ngoài, địch có thể tăng viện ra phía tây Quảng Trị từ 1 trung đoàn đến 1 sư đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn thiết giáp, 3 tiểu đoàn pháo và 100 đến 150 tàu chiến, máy bay hoạt động trong ngày, ngoài ra có máy bay B52 sẵn sàng đối phó. Do nghiên cứu trinh sát tỉ mỉ ở phía sau lưng địch trong khi pháo binh ta bắn chuẩn bị, Sư đoàn 304 đã đưa ngay Trung đoàn 24 vào bao vây cao điểm 241, nhờ vậy khi ta nổ súng tiến công, quân địch bị bất ngờ và trở tay không kịp.

Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 3 năm 1972, toàn mặt trận nổ súng, một cơn bão lửa trút xuống các căn cứ Mỹ-ngụy dọc theo Đường 9.

Trên hướng Tây, cùng 11 giờ 30 phút, các trận địa pháo của Trung đoàn 38 và Trung đoàn 68 cũng dội bão lửa xuống Động Toàn, Ba Hồ, Đầu Mầu căn cứ Phú Lộc, điểm cao 241. Sau 2 giờ chiến đấu, Trung đoàn 9 làm chủ Đầu Mầu - một trong những vị trí phòng thủ phía Tây cao điểm 241. Sau nhiều lần tổ chức tấn công, đến 6 giờ sáng ngày 1 tháng 4, Trung đoàn 66 làm chủ Động Toàn và Ba Hồ. Quân địch mệnh danh cho Động Toàn là “Con mắt thần” của hướng Tây.

Vậy là trong 2 ngày đầu của chiến dịch, Sư đoàn 304 đã cùng đơn vị bạn đập tan một mảng vỏ cứng tuyến phòng thủ vòng ngoài phía tây Quảng Trị đó là Động Toàn, Ba Hồ, Đầu Mầu, núi Kiếm.

 Sáng ngày 2 tháng 4, Nguyễn Văn Thiệu vội vã từ Sài Gòn ra Huế triệu tập các tư lệnh sư đoàn để đối phó với Quân giải phóng. Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho tướng Vũ Văn Giai và Hoàng Xuân Lãm không được bỏ một tấc đất và lệnh điều động thêm sư đoàn lính thủy đánh bộ ra Trị Thiên.

Trong khi đó, quân ta bao vây ép địch ở cao điểm 241. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 2 tháng 4 năm 1972, Trung tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 ngụy treo cờ trắng đầu hàng. Bốn ngày chiến dịch, Sư đoàn 304 đã chiếm được các cứ điểm Đầu Mầu, Động Toàn, Ba Hồ, cao điểm 241, Mai Lộc; đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ, bức hàng Trung đoàn 56 ngụy, diệt 2 tiểu đoàn pháo, 1 lữ đoàn xe tăng thiết giáp của thiết đoàn 11, thu 14 xe ô tô, 50 pháo (trong đó có 4 khẩu 175mm), bắn rơi 18 máy bay các loại. Tuyến phòng thủ phía tây bắc Quảng Trị bị quân ta đập tan.

Ngày 4 tháng 4, địch điều Lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ từ Sài Gòn ra Mỹ Chánh. Các liên đoàn biệt động 4, 5, 6 cũng được địch điều từ quân khu 2 tăng cường cho Đông Hà - Quảng Trị. Địch cố thủ Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị với quân số tương đương 2 sư đoàn. Đặc biệt, chúng tăng cường hoạt động không quân, có ngày tới 237 lần chiếc. Ngoài biển thường xuyên có 7-8 chiến hạm Mỹ bắn vào...

Từ ngày 6 tháng 4 năm 1972, không quân Mỹ đánh phá miền Bắc. Lần đầu tiên chúng dùng B52 đánh phá thành phố, thị xã Vinh, Thanh Hóa, Hà Nội, Hải Phòng, phong tỏa các cảng…

Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: Địch tăng cường nhưng chưa được củng cố, tinh thần còn hoang mang. Ta đánh mạnh thì chúng sẽ tan vỡ nhanh.

Để tiến công tiêu diệt các cụm phòng ngự của địch, giải phóng hoàn toàn Quảng Trị. Bộ tư lệnh chiến dịch sử dụng Sư đoàn 308 tiến công tiêu diệt địch ở cụm Đông Hà, Lai Phước. Sư đoàn 324 đánh địch ở La Vang, cắt giao thông trên Quốc lộ 1 bắc cầu Mỹ Chánh - nam thị xã Quảng Trị.

Vào 15 giờ ngày 28 tháng 4, pháo binh ta bắt đầu bắn phá các tuyến phòng ngự, Sư đoàn 304 được phối thuộc Trung đoàn 48, Sư đoàn 390 tiến công vào Ái Tử, chiếm chỉ huy sở Sư đoàn 3 ngụy. Tướng Vũ Văn Giai - Tư lệnh sư đoàn phải trà trộn vào đám tàn quân chạy về Thành cổ Quảng Trị. Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) vượt sông Mỹ Chánh đánh vào hậu phương quân địch thị xã Quảng Trị.

Trong lúc Sư đoàn 304 tiến công vào Ái Tử, thì Sư đoàn 308 tiến công quân địch ở Đông Hà - Lai Phước - tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch ở Quảng Trị. Đến 15 giờ ngày 29-4 quân ta làm chủ hoàn toàn Đông Hà.

Vào 9 giờ 30 phút ngày 1 tháng 5, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 đã cắm cờ chiến thắng lên tòa hành chính thị xã Quảng Trị. Tỉnh Quảng Trị là tỉnh đầu tiên trên chiến trường miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Chiến trường Quảng Trị là sự phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường toàn miền Nam.

Thắng lợi của chiến dịch này, có ý nghĩa lớn về mặt chiến lược. Đó là tuyến đầu của Mỹ - ngụy. Tại đây, chúng lập nên hàng rào Mắc Na-ma-ra hòng chặn đứng quân ta, không cho quân ta xâm nhập vào miền Nam. Nhưng hàng rào đó bị quân ta phá tan tành.

Đồng thời, Quảng Trị cũng là tỉnh địa đầu miền Nam được giải phóng, cùng với 12 ngày đêm chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" trên bầu trời thủ đô Hà Nội. Từ đó, buộc địch phải ký kết hiệp định Pa-ri, đây là một thất bại về chiến lược của Mỹ. Như vậy là quân dân ta đã thực hiện được lời chúc Tết của Bác Hồ năm xưa “Đánh cho Mỹ cút…” và cũng từ đó, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ra mắt với thế giới trên mảnh đất Đông Hà-Quảng Trị để đón tiếp các đại sứ và khách nước ngoài.

Sau khi tỉnh Quảng Trị được giải phóng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm chiến trường và thăm Sư đoàn 304. Đại tướng căn dặn: “Sư đoàn là một trong những sư đoàn thép của Quân đội nhân dân Việt Nam, Sư đoàn phải rèn luyện cho thật mạnh...”.

Cũng trong năm 1973, Phi-đen Ca-xtơ-rô - vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên đến thăm vùng giải phóng miền Nam và Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng đi. Trong buổi mít tinh tại căn cứ 241, Chủ tịch Phi-đen Ca-xtơ-rô đã phất cao lá cờ giải phóng. Đồng chí nói: “Các đồng chí hãy đem lá cờ bách chiến bách thắng này cắm vào sào huyệt cuối cùng của chính quyền ngụy Sài Gòn”.

Hai năm sau đó, tức là ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn 304 đã cắm lá cờ giải phóng - lá cờ bách chiến bách thắng đó trên nóc Dinh Độc Lập của chính quyền ngụy Sài Gòn vào lúc 11 giờ 30 phút.

Trung tướng Nguyễn Ân