QĐND - Vào thời điểm đó, Tê-hê-ran là nơi đang tràn ngập những người tị nạn đến từ các khu vực châu Âu bị chiến tranh tàn phá, gồm khoảng 20.000 người Đức. Đa phần trong số họ là những người giàu có tìm cách chạy trốn khỏi sự hiểm nguy của chiến tranh. Và có nhiều nhân viên tình báo của Đức Quốc xã lợi dụng trà trộn trong dòng người tị nạn đó tới I-ran. Trước khi hội nghị diễn ra, từ tháng 2-1940 đến tháng 8-1941, nhóm bảy nhân viên tình báo do Va-rơ-ta-ni-an đứng đầu đã theo dõi và xác định được hơn 400 điệp viên của Đức Quốc xã. Hành động theo Hiệp ước Hữu nghị Nga - Ba Tư năm 1921, từ tháng 8-1941, Liên Xô đã đưa quân vào khu vực phía Bắc I-ran để kiềm chế hoạt động của các điệp viên Đức. Khi quân đội Liên Xô tiến vào I-ran, số điệp viên này đã bị bắt. Chỉ huy lực lượng tình báo Đức Quốc xã tại I-ran là Phran-xơ Mây-ơ (Franz Meyer) đã trốn thoát. Theo Va-rơ-ta-ni-an, ông và nhóm tình báo của mình đã mất một thời gian dài để truy tìm hắn, và cuối cùng, Mây-ơ đã bị phát hiện với bộ râu dài đã nhuộm màu khác và đang làm việc như là một người đào mộ tại một nghĩa trang Ác-mê-ni-a.

Va-rơ-ta-ni-an và vợ

 

Ngày 28-11-1943, nhóm điệp viên của Va-rơ-ta-ni-an đã xác định chính xác vị trí của nhóm điệp viên Đức đầu tiên trong chiến dịch Long Jump ở gần thành phố Qum, cách Tê-hê-ran 60km, sau khi nhóm điệp viên nhảy dù gồm sáu hiệu thính viên vô tuyến điện trang bị đầy vũ khí. Sau khi các điệp viên Đức đổ bộ xuống I-ran, Va-rơ-ta-ni-an đã theo dõi nhóm này trong hành trình đến Tê-hê-ran bằng lạc đà, nơi có sẵn một biệt thự làm trạm dừng chân chờ họ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2007, Va-rơ-ta-ni-an cho biết, thông qua theo dõi nhóm điệp viên Đức Quốc xã, ông và các nhân viên tình báo Xô-viết đã phát hiện và ghi lại được những tín hiệu ra-đi-ô mà các điệp viên này liên lạc với Béc-lin.

Sau khi giải mã các tín hiệu ra-đi-ô thu được, nhóm tình báo do Va-rơ-ta-ni-an lãnh đạo biết được rằng người Đức đang chuẩn bị gửi đến Tê-hê-ran nhóm điệp viên thứ hai. Nhiệm vụ của nhóm thứ hai - nhóm chính thực hiện chiến dịch - sẽ là tiến hành các hành động tàn phá và khủng bố - mà mục tiêu là ám sát hay bắt cóc các nhà lãnh đạo ba nước Đồng minh. Nhóm thứ hai dự kiến được chỉ huy bởi Xco-de-ni (Skorzeny), một điệp viên Đức Quốc xã lão luyện. Chính Xcode-ni đã đích thân đến Tê-hê-ran để nghiên cứu thực địa nơi sẽ diễn ra hội nghị của các nhà lãnh đạo Liên Xô, Anh và Mỹ. Các nhân viên tình báo Liên Xô cũng đã nắm được tất cả các hành tung của Xco-de-ni. Năm 1966, Xco-de-ni khai nhận rằng ông ta đã được lệnh chuẩn bị thực hiện âm mưu bắt cóc hoặc giết chết ba nhà lãnh đạo Liên Xô, Anh và Mỹ tại Tê-hê-ran.

An ninh Liên Xô đã bắt tất cả các thành viên của nhóm tình báo Đức Quốc xã đầu tiên và khống chế những điệp viên này liên lạc với cơ quan tình báo đối phương dưới sự giám sát của các nhân viên tình báo Xô-viết. “Khi đó, việc bắt Xco-de-ni thật là hấp dẫn, nhưng lãnh đạo các nước Đồng minh đã đến Tê-hê-ran và chúng tôi không thể mạo hiểm. Chúng tôi cho một hiệu thính viên cơ hội gửi đi một bức điện báo cáo rằng chiến dịch đã thất bại, và người Đức đã quyết định không gửi nhóm điệp viên chính dưới sự chỉ huy của Xco-de-ni tới Tê-hê-ran nữa”, nhà tình báo huyền thoại Va-rơ-ta-ni-an kể.

Kết thúc chiến dịch này, nhóm nhân viên tình báo Liên Xô dưới sự chỉ huy của ông đã thành công trong việc phát hiện ra nhóm điệp viên Đức Quốc xã và tiến hành các hành động tiếp theo để chặn đứng âm mưu ám sát những nhà lãnh đạo các nước Đồng minh, gồm Liên Xô, Anh và Mỹ.

Năm 1945, sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai, Va-rơ-ta-ni-an được lệnh trở về Liên Xô để theo học và tốt nghiệp Khoa Ngoại ngữ Trường Đại học tại Ê-rê-van ở Ác-mê-ni-a. Sau đó, Va-rơ-ta-ni-an ra nước ngoài tiếp tục các hoạt động tình báo phục vụ Liên bang Xô-viết trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Suốt cuộc đời hoạt động tình báo của mình, mà nhiều phần vẫn còn phủ kín trong bức màn bí mật, Va-rơ-ta-ni-an đã nhận được sự hỗ trợ hết lòng của vợ ông, bà Goar, cũng là một điệp viên Liên Xô, đồng thời là một thành viên trong nhóm tình báo của ông.

Va-rơ-ta-ni-an đã gặp Goar khi bà 13 tuổi. Khi bà trưởng thành, ông đã đưa bà vào hoạt động tình báo với ông. Họ kết hôn vào năm 1946, và theo SVR, họ đã làm điệp viên cùng nhau trong 30 năm ở nhiều nước châu Âu, châu Á và Mỹ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Vợ chồng điệp viên Va-rơ-ta-ni-an chỉ trở về Liên Xô vào năm 1986 và Va-rơ-ta-ni-an tiếp tục làm việc trong ngành tình báo cho tới năm 1992.

Tên tuổi và sự nghiệp tình báo còn đầy bí ẩn của Va-rơ-ta-ni-an chỉ được Mát-xcơ-va công bố vào ngày 20-12-2000. Mặc dù đã nhận những huân, huy chương cao quý nhất của nhà nước Xô-viết vì những đóng góp to lớn của ông cho đất nước, nhưng Va-rơ-ta-ni-an vẫn tin rằng thành tích lớn nhất của ông và vợ vẫn là phục vụ ngành tình báo Xô-viết thành công trong 45 năm và trở về tổ quốc an toàn. Khi nói về 45 năm tình báo của ông, phần lớn là cùng với vợ, ông cho biết: “Chúng tôi đã may mắn - chúng tôi chưa bao giờ gặp phải bất cứ một kẻ phản bội nào. Đối với chúng tôi, những điệp viên ngầm, sự phản bội là tội ác tồi tệ nhất. Nếu một tình báo viên tuân thủ mọi quy tắc an ninh và cư xử đúng cách trong xã hội thì không một điệp viên phản gián nào bị phát hiện. Điệp viên ngầm chỉ sai lầm được một lần.

Vũ Anh Tuấn

(Theo telegraph.co.uk và báo chí nước ngoài)

Cuộc đời nhà tình báo huyền thoại Xô Viết G. Va-rơ-ta-ni-an (Kỳ 1)