QĐND - Có thể nói chỗ rắn nhất và cũng là tuyến phòng thủ quan trọng nhất của địch là Xuân Lộc - Long Khánh. Nhìn trên bản đồ chúng ta thấy, tuyến vòng cung phòng thủ vòng ngoài Sài Gòn của đối phương từ hướng Tây Bắc theo chiều kim đồng hồ đến đông nam Sài Gòn, tức là từ Tây Ninh đến Vũng Tàu, địch bố trí 3 sư đoàn chủ lực thiện chiến bậc nhất, gồm Sư đoàn 25 ở Trảng Lớn - Tây Ninh, Sư đoàn 5 ở Lai Khê - Bến Cát, Sư đoàn 18 ở Xuân Lộc - Long Khánh. Và trong số 5 sư đoàn bảo vệ vòng ngoài Sài Gòn (gồm các sư: 5; 7; 18; 22 và 25), thì chỉ có Sư đoàn 18 đứng ở Xuân Lộc còn nguyên về lực lượng, lại được đầu tư trang bị xây dựng từ chân tơ kẽ tóc, được chi viện tối đa về hỏa lực, được tăng cường các đơn vị dự bị chiến lược cuối cùng của quân ngụy. Xuân Lộc - Long Khánh là khu vực phòng ngự trọng yếu của địch, bảo vệ Sài Gòn từ phía đông, là một trọng điểm của tuyến phòng ngự Xuân Lộc - Biên Hòa - Bà Rịa - Vũng Tàu, đồng thời là điểm tựa hậu thuẫn vững vàng của phòng tuyến Phan Rang. Xuân Lộc là “cánh cửa thép” - ngã tư quan trọng, phát triển bốn hướng theo bốn trục lộ (số 1, 20, 2 và 3), trong đó chủ yếu là án ngữ hai con đường Quốc lộ số 2 và 20 về Sài Gòn. Ở đây, bên cạnh Sư đoàn 18 ngụy thiện chiến và được trang bị mạnh, còn có Sở chỉ huy Quân đoàn 3, tổng kho Long Bình, sân bay và cầu lớn Biên Hòa. Ngoài những lực lượng phòng thủ đóng quân cố định tại đây, khi chiến dịch nổ ra, chúng còn tung vào nhiều lực lượng bộ binh chủ lực và cơ giới như: Lữ đoàn 1 dù; Chiến đoàn 5 của Sư đoàn 5; Liên đoàn 7 Biệt động quân; Lữ đoàn 3 Thiết giáp, các trung đoàn thiết giáp, các lữ đoàn thủy quân lục chiến 315, 318, 320 v.v.. Thực tế cho thấy, Xuân Lộc là mắt xích quan trọng nhất của tuyến phòng thủ vòng ngoài Sài Gòn. Quyết tâm của ngụy quyền Sài Gòn là giữ cho được “cánh cửa thép” này để hy vọng giữ được thủ phủ Sài Gòn, hòng tìm một giải pháp chính trị duy trì chế độ tay sai ngụy quyền ở miền Nam. Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu từng khẳng định, “mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”. Còn các tướng lĩnh ngụy thì luôn rêu rao đây là “phòng tuyến bất khả xâm phạm”, là “cái máy nghiền các binh đoàn Việt Cộng”.

Ảnh minh họa: Tư liệu

Thực tế diễn ra ở những ngày cuối tháng 4-1975 cho thấy, các đơn vị của ta thực hành “đánh trong hành tiến” với thế “thượng phong”, còn quân ngụy hầu hết là hoang mang trong thế “vỡ trận, tan rã và đầu hàng”. Chỉ riêng có vị trí Xuân Lộc - Long Khánh là gay go, ác liệt nhất. Nhưng thực tế cũng đã cho thấy, sau những ngày chiến đấu quyết liệt, dũng mãnh, hy sinh to lớn của 3 sư đoàn thuộc Quân đoàn 4 và Quân khu 7, Trung đoàn 95B và các lực lượng vũ trang địa phương Biên Hòa - Bà Rịa - Long Khánh, thì vị trí “cánh cửa thép Xuân Lộc - Long Khánh” đã được giải quyết một cách căn bản. Cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 từ xa đã nhanh chóng thọc sâu vào nội đô là một công lớn, nhưng phải thấy rõ là khi Quân đoàn 4 và các lực lượng trực tiếp chiến đấu ở Xuân Lộc đã chiếm và làm chủ từ ngã ba Dầu Giây, đánh chiếm Sở chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy ở Biên Hòa, đã đánh chiếm và làm chủ sân bay Biên Hòa, rồi cầu Biên Hòa, là đã hoàn thành cơ bản, đã mở rộng đường tiến vào Sài Gòn. Lực lượng Đặc công và Biệt động đã đánh chiếm và giữ các cây cầu quan trọng để tiến vào nội đô, sức đề kháng của quân ngụy rất yếu ớt, lực lượng thủy quân lục chiến ngụy đã gần như bỏ trống địa bàn. Cho nên mũi thọc sâu của Quân đoàn 2 chỉ có 1 trung đoàn thiếu và một đại đội xe tăng đã xộc thẳng được vào Dinh Độc Lập. Bởi vậy, nếu nói tới chiến thắng 30-4, cần nói rõ cả năm cánh quân từ năm hướng, tiến công đồng loạt vào sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền tay sai với một quyết tâm và nỗ lực rất cao, trong đó kết quả tác chiến của đơn vị này đã mở ra điều kiện thuận lợi, thậm chí rất thuận lợi cho đơn vị kia.

Nói về chiến thắng 30-4-1975 mà chỉ nói về năm cánh quân từ năm hướng tiến công, tức là chỉ nói về “quả đấm chủ lực” thì không đầy đủ và không công bằng. Phải thấy rõ đây thật sự là cuộc “Tổng tiến công và nổi dậy”, trong đó “quả đấm chủ lực” với những binh đoàn chủ lực là lực lượng nòng cốt của đấu tranh quân sự, với những đòn điểm huyệt đã đánh trúng, đánh hay, đánh hiểm ở những trận then chốt và then chốt quyết định, chọc thủng và làm vỡ tuyến phòng thủ chiến lược của địch, khiến quân địch nhanh chóng lâm vào thế bị động, lúng túng, hoảng loạn về tinh thần rồi vỡ trận về quân sự. Nhưng để giải quyết đồng loạt, rộng khắp, kịp thời và thật sự làm cho cả bộ máy ngụy quyền và đội ngũ ngụy quân 1,1 triệu tên, với trang bị hiện đại, được viện trợ mạnh của đế quốc Mỹ, thì phải thấy rõ vai trò tiến công và nổi dậy của lực lượng tại chỗ, của lực lượng chính trị quần chúng, trong đó có cả những người bị bắt buộc đứng trong hàng ngũ của địch, có cả yếu tố binh biến mà từ trước tới nay ta chưa nói rõ. Phải thấy rõ vai trò lãnh đạo nhạy bén, kịp thời, thống nhất của các khu ủy, tỉnh ủy và đảng ủy các cấp cơ sở trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.

Toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã toát lên một điều là đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta đã thấm sâu vào quần chúng, kể cả quần chúng bị bắt buộc vào trong hàng ngũ địch, đây là thời cơ nó bộc lộ ra, vô cùng sinh động, mạnh mẽ và hiệu quả hơn bao giờ hết.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư cách là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, người đại diện và luôn phấn đấu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân, thành phần trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam, thì phong trào đấu tranh của quần chúng đã phát triển thành ba lực lượng: Lực lượng vũ trang cách mạng; Lực lượng chính trị, cơ sở của cách mạng trong lòng địch, lực lượng quần chúng; Lực lượng quần chúng bị bắt buộc.

Tôi thấy ở miền Nam, làng quê, khu phố nào, với nhiều dòng họ - gia đình có ba lực lượng đó. Có thể nói, cả ba lực lượng này nó thuần hóa với nhau, nó chuyển hóa vào từng con người một. Nhưng với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt và đầy tính nhân văn của Đảng ta, đã tạo ra động lực và thúc đẩy mà các lực lượng này có thời cơ được bộc lộ và phát huy khả năng, từ đó cùng cộng hưởng để tạo nên sức mạnh cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ này, và sức mạnh đó đã thật sự làm được, làm đúng, làm có hiệu quả tinh thần chỉ đạo của Trung ương Cục là: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã" v.v.. Các lực lượng của cách mạng đã hiệp đồng chặt chẽ, kết hợp và cộng hưởng tạo nên sức mạnh to lớn “đánh bật quân xâm lược” rồi lại làm tan rã và quật đổ ngụy quyền tay sai dù chúng có một bộ máy đồ sộ, với 1,1 triệu quân ngụy được trang bị hiện đại, với sự bảo trợ của quan thầy ngoại bang.

Cùng với đó, chúng ta cũng không bao giờ quên, sức mạnh của chúng ta có được là còn từ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, cách mạng Lào và Cam-pu-chia, các nước XHCN, nhân dân và chính phủ các nước yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân và nhiều nghị sĩ tiến bộ Mỹ. Đồng chí Lê Duẩn đã nói: “Sức mạnh dân tộc đã kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng quân thù”.

Còn một điểm nữa vô cùng quan trọng, chúng ta không thể không nói tới mỗi khi nghĩ về Chiến thắng 30-4-1975, về cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại của Đảng và nhân dân ta, đó là thời cơ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ kiệt suất của cách mạng Việt Nam rất coi trọng chữ “thời”, Người nhắc lại lời đúc kết của cha ông ta: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí/Gặp thời một tốt cũng thành công”.

Sau khi bị quân và dân ta liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ đang đứng trước nguy cơ phá sản, lúc này, thời cơ mới của cách mạng Việt Nam đã xuất hiện. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân - 1968, chúng ta đã thực hiện được một nửa quyết tâm chiến lược “đánh cho Mỹ cút” trong tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Trung ương Đảng và Bác Hồ “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, buộc Mỹ phải tuyên bố rút quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, ngừng ném bom phá hoại miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán, rồi đi đến buộc phải ký Hiệp định Pa-ri (27-1-1973). Nhưng những người cầm quyền nước Mỹ lúc đó vẫn ngoan cố thực hiện chủ nghĩa thực dân mới bằng một chiến lược mới từ “phi Mỹ hóa” rồi sang “Việt Nam hóa chiến tranh” để cố chiếm giữ miền Nam nước ta nhằm phục vụ cho mưu đồ của họ. 

Sau khi Bác Hồ qua đời, lãnh tụ của cách mạng Việt Nam là lãnh tụ tập thể, trong đó người chịu trọng trách lớn nhất là đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Có thể nói, khi Bác qua đời, lòng dân hẫng hụt, nhưng với uy tín vốn có, với quyết tâm sắt đá giải phóng miền Nam, thì đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng đồng chí Lê Duẩn và tập thể Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện ý tưởng về “thời cơ” của Bác Hồ, đã khắc phục được sự hụt hẫng và tạo được niềm tin tất thắng cho chiến sĩ và đồng bào, nhất là đồng bào miền Nam. Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình mọi mặt, đã đề ra tư tưởng chỉ đạo: “Quyết không để cho quân ngụy lại hồn, phải chớp thời cơ càng nhanh càng tốt, nó lại hồn thì mình sẽ khó vô cùng”...

Lúc đó, tôi có dịp trao đổi với anh Lê Duẩn. Chúng tôi đều nhất trí thấy rằng, Mỹ tăng cố vấn và tăng viện trợ để thực hiện quyết liệt ý đồ “Quốc gia dân tộc”, nhưng quan chức ngụy quyền và tướng lĩnh ngụy quân chỉ tập trung tìm cách tham nhũng và đấu đá tranh giành quyền bính nên chưa thực hiện được. Cả bộ máy quân sự khá đồ sộ, từ quân chủ lực tới quân địa phương, bảo an, dân vệ đến phòng vệ dân sự v.v., quân đông, hệ thống tổ chức đồ sộ nhưng không mạnh. Anh Lê Duẩn nói: “Quyết không để cho quân ngụy nó lại hồn, không để cho nó trấn tĩnh lại, phải chớp thời cơ càng nhanh càng tốt. Nếu một khi nó đã hết hoang mang, ổn định tinh thần rồi thì mình sẽ khó vô cùng. Nếu kế hoạch cơ bản về “Việt Nam hóa” của nó mà làm được 70% thì ta sẽ khó khăn. Lúc đó, nếu còn chiến tranh thì sẽ trở thành nội chiến, mà đã thế thì nó sẽ diễn ra như thế nào, không ai lường trước được”. Để tâm nghiên cứu tình hình một chút thì thấy rất rõ là từ giữa năm 1973 đến đầu năm 1974, nó đã bắt đầu thí điểm thực hiện kế hoạch ở một số vùng ven đô. Bởi vậy, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: Nhằm lúc Mỹ rút nhưng chưa rút xong, ngụy ở lại thì chưa ổn định, đây là thời cơ tốt nhất để ta Tổng tiến công và nổi dậy đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Thời cơ là vô cùng quan trọng, thời cơ là sức mạnh. (Còn nữa)

Đại tướng LÊ ĐỨC ANH                      

Chúng tôi tiến công giải phóng Sài Gòn từ hướng Tây-Tây Nam