 |
Chiếc đồng hồ Bác Hồ tặng Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát. |
Trong số những chiếc đồng hồ Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho các vị tướng có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp giải phóng đất nước hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, có một chiếc của Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân.
Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát sinh ngày 2-5-1921, mất năm 1993, quê ở thôn Trung Sơn, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Ông tham gia cách mạng từ năm 1945 và đã từng đảm nhận nhiều vị trí quan trọng. Năm 1974, đồng chí được phong quân hàm Thiếu tướng. Trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, ông tham gia chỉ huy bộ đội đánh chiếm giải phóng các đảo và quần đảo Trường Sa. Từ tháng 9-1976 đến năm 1987, ông là Thứ trưởng Bộ Thủy sản kiêm Bí thư Đảng ủy cơ quan bộ.
Chiếc đồng hồ Bác Hồ tặng Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát nhãn hiệu Wyler do Thụy Sỹ sản xuất. Điều đặc biệt là mặt sau đồng hồ có dòng chữ Hồ Chí Minh bằng tiếng Hán. Sinh thời, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát luôn đeo trên tay và coi đây là vật quý giá nhất trong đời mình. Đối với ông, Bác Hồ luôn làtấm gương cao cả nhất, thiêng liêng nhất và ông tự thấy mình phải phấn đấu hơn nữa để xứng đáng với phần thưởng cao quý này.
Chiếc đồng hồ cùng với những tấm huân chương cao quý của Nhà nước tặng thưởng, trước khi đi xa, ông dặn con cháu đặt trên bàn thờ tổ tiên. Điều này nhắc nhở con cháu phấn đấu sống và làm việc kế tục sự nghiệp của cha ông. Trong tập hồi ký của mình, Thiếu tướng có kể lại một kỷ niệm về Bác Hồ:
"Tôi nhớ vào dịp cuối năm 1961, Bác Hồ được tin các tỉnh CàMau, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu và Bà Rịa... đã tổ chứcđược 6 thuyền vượt biển ra Bắc an toàn.Ông Cụ mừng lắm nên không đợi tôi lên Hà Nội báo cáo với Cụ, màbí mật xuống Hải Phòng gặp tôi.
Tôi hoàn toàn bất ngờ khi thấy ông Cụ đẩy nhẹ cánh cửa phòng làm việc của tôi. Bất chợt tôi ngước lên bắt gặp ông Cụ có chòm râu bạc như tiên, không lẫn vào ai được. Tôi như con nai ngơ ngác, chưa kịp reo lên, ông Cụ ra hiệu cho tôi im lặng. Bất giác, tôi xúc động, nước mắt trào dâng.
Ông Cụ chủđộng nói: "Bí mật, bất ngờ là bí quyết của mọi thắng lợi, phải không chú Phát!". Tôi chưa kịp thốt lên chữ: Vâng; ông Cụ đã hỏi: Thế các chú trong ấy ra đi đâu cả rồi? Tôi bối rối: Các đồng chí trong ấy ra đêm qua, trời rét quá lẽ ra đêm qua cháu phải lên Hà Nội báo cáo với Bác và cácđồng chí Trung ương nhưng sợ làm mất giấc ngủ, định sáng nay lên thì Bác đã xuống.
Ông Cụ hỏi tôi về sựđón tiếp anh em Quân giải phóng có chu đáo không? Tôi thưa với Bác là chúng cháu đã lo chu tất, anh em phấn khởi lắm. Đêm qua, chúng cháu đã đưa anh em về nghỉ tại số nhà 83 Lý Nam Đế, Hà Nội. Bác khen chúng tôi thế là tốt. Bác còn nhắc đi nhắc lại hai chữ "bí mật" để tôi nhập tâm.
Trước khi lên xe trở về Hà Nội, Bác kéo tôi ra đầu hồi nhà làm việc, nơi có cây bàng che kín gió. Bác nói nhỏ vừa đủ cho tôi nghe: "Chú là gốc" lính thủy Pháp, chú có nhiều kinh nghiệm đi biển, đánh thắng thằng Mỹ này phải khác với đánh thắng thằng Pháp. Chú đã có công quật ngã thằng Pháp ở dưới mặt biển, thì bây giờ chú phải quật ngã tiếp thằng Mỹ xâm lược này nữa chứ, chú Phát. Nói rồi Bác cười. Tôi như nuốt từng lời của Bác.
Như được tiếp thêm sức mạnh, tôi cùng cán bộ, chiến sĩ hải quân dốc hết tâm huyết của mình xây dựng đoàn tàu "không số", một con đường mòn trên biển bất chấp sóng gió, tàu chiến, máy bay, bom đạn của Hạm đội 7 Mỹ để vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam cho đến ngày Mỹ cút, ngụy nhào, Bắc - Nam sum họp một nhà.
Câu chuyện cũ in đậm trong tâm tưởng của tôi. Mỗi lần nhớ lại kỷ niệm không thể quên đó, tôi lại giở những trang nhật ký cũ ra xem lại, hồi tưởng lại những khuôn mặt của những cán bộ, chiến sĩ đi trên các chuyến tàu không số đã mãi mãi không trở về và tự hỏi mình có việc gì đó chưa làm đúng với vinh dự, trách nhiệm của người lính Cụ Hồ".
TRẦN THANH HẰNG