QĐND Online - Để cứu vãn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” được thực hiện ở miền Nam từ đầu thập niên 60 của thế kỷ XX đang có nguy cơ phá sản, từ mùa hè năm 1964, Mỹ ráo riết chuẩn bị đưa quân vào tham chiến ở miền Nam và chuẩn bị tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đế quốc Mỹ một mặt hối thúc quân ngụy tăng cường đưa thám báo, biệt kích vào quấy phá, mặt khác ráo riết thực hiện “Kế hoạch 34A”, một “Chương trình chi tiết các hoạt động quân sự không công khai chống Bắc Việt Nam”. Chúng cho tàu khu trục ngang nhiên vào hoạt động ở vịnh Bắc Bộ, cho các tàu biệt kích trinh sát, tập kích vào những cơ sở quân sự của ta ở ven biển, quấy rối và bắt các thuyền dân ở cửa sông Gianh, Bảo Ninh, tỉnh Quảng Bình… gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong nhân dân ở các vùng biển Bắc Miền Trung; đồng thời Mỹ sử dụng lực lượng không quân của căn cứ đóng tại Thái Bình Dương đánh phá các tuyến vận chuyển chiến lược nhằm ngăn chặn sự chi viện của ta từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Cùng với việc tăng cường các hoạt động trinh sát, do thám bằng máy bay, liên tục trong tháng 6 và tháng 7 năm 1964, Mỹ ngụy cho biệt kích đột nhập đánh phá cầu Hang ở tỉnh Thanh Hóa và Nhà máy nước Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; cho tàu chiến xâm phạm khu vực ven biển miền Trung, bắn pháo hạm vào đảo Hòn Ngư (Nghệ An) và Hòn Mê (Thanh Hóa). Đặc biệt đêm 31 tháng 7 rạng ngày 1 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ cho tàu khu trục Ma - đốc mang số hiệu 731 xâm phạm vùng biển phía nam đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Bình, sau đó chuyển hướng đi lên phía Bắc và tiến vào gần bờ để thực hiện nhiệm vụ do thám, thăm dò, uy hiếp các lực lượng của ta suốt dọc bờ biển từ Quảng Bình đến Thanh Hóa. Trên không, chúng cho máy bay bắn phá vào Đồn Biên phòng Nậm Cắn và khu dân cư Noọng Dẻ ở phía tây tỉnh Nghệ An, nằm sâu trong lãnh thổ nước ta cách biên giới Việt - Lào từ 7 đến 20km.

 
 Đại tá Nguyễn Đăng Đại, Chính ủy Lữ đoàn 170 Vùng 1 Hải quân (ngoài cùng bên phải), rút kinh nghiệm công tác huấn luyện với cán bộ huấn luyện Hải đội 135.

Xuất phát từ đặc điểm tình hình trên, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị ngày 29 - 6- 1964 về: “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu phá tan âm mưu khiêu khích, đánh phá miền Bắc của không quân Mỹ” và lệnh của Bộ Tổng Tham mưu kiên quyết trừng trị tàu khu trục Ma - đốc của đế quốc Mỹ đang xâm phạm, quấy rối, khiêu khích, phá hoại, quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi vùng biển miền Bắc nước ta.

Quán triệt sâu sắc Chỉ thị của Bộ Chính trị, Hải quân Việt Nam được giao nhiệm vụ sử dụng lực lượng bí mật, bất ngờ, sẵn sàng đánh tàu Ma-đốc khi chúng vào cách bờ 6 hải lý; đồng thời Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm vụ cho Hải quân trong trận chiến đấu này là phải chuẩn bị đầy đủ, chắc thắng. Để thực hiện nhiệm vụ trên, ngày 2 tháng 8 năm 1964, lực lượng làm nhiệm vụ đánh tàu Ma-đốc của đế quốc Mỹ gồm 3 tàu phóng lôi mang số hiệu T333, T336, T339 của Phân đội 3 thuộc Tiểu đoàn 135 tàu phóng lôi. Các tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam đã chiến đấu với tàu khu trục Ma-đốc và máy bay của Mỹ ở khu vực phía đông nam Hòn Nẹ, đông bắc Hòn Mê (Thanh Hóa). Sau khi tàu Ma-đốc bị tàu phóng lôi Hải quân Viêt Nam đánh đuổi ra khỏi vùng hải phận nước ta, nhà cầm quyền Mỹ đã dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”, vu cáo cho Hải quân Bắc Việt Nam cố ý tiến công tàu khu trục của Mỹ đang hoạt động trên vùng biển quốc tế để lấy cớ tiến hành cuộc hành quân “Mũi tên xuyên”, dùng lực lượng không quân tập kích vào lực lượng Hải quân của ta và ngày 5 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ cho hàng chục lượt máy bay tập kích bất ngờ vào lực lượng tàu của Hải quân Nhân dân Việt Nam và chúng đã gặp phải sự giáng trả quyết liệt. Trực tiếp chiến đấu đánh trả máy bay địch trong ngày 5 tháng 8 năm 1964 gồm các tàu của Phân đội 1, Phân đội 2, Phân đội 3 thuộc Khu tuần phòng 1; Phân đội 6, Phân đội 7 thuộc Khu tuần phòng 2; các tàu phóng lôi của Phân đội 3 thuộc Tiểu đoàn 135 vừa làm nhiệm vụ đánh đuổi tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ trở về và các lực lượng ở các căn cứ hải quân.

Huấn luyện sẵn sàng chiến đấu tốt, phải được bắt đầu từ công tác tập huấn, huấn luyện cán bộ.

Lần đầu tiên Hải quân nhân dân Việt Nam ra quân trực tiếp chiến đấu với tàu chiến và máy bay hiện đại của đế quốc Mỹ xâm lược, đã giành thắng lợi có ý nghĩa rất to lớn, ngày 2 tháng 8 năm 1964 đã bắn rơi 1 máy bay, bắn bị thương 1 chiếc khác, đuổi tàu khu trục Ma-đốc hiện đại của Mỹ ra khỏi vùng biển của ta và ngày 5 tháng 8 năm 1964 Hải quân Việt Nam đã phối hợp với Lực lượng Phòng không Quốc gia và nhân dân các địa phương bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương 4 chiếc khác, bắt giặc lái - Trung úy An-vơ-rét. Trận chiến đấu ngày 2 và 5 tháng 8 năm 1964 là trận đối đầu trực tiếp giữa một bên là lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam non trẻ, phương tiện, vũ khí, trang bị kỹ thuật rất hạn chế và chưa có kinh nghiệm trong tác chiến thực tế, với một bên là lực lượng hải quân, không quân của đế quốc Mỹ vượt trội hơn ta rất nhiều về vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại và có kinh nghiệm tác chiến của một đội quân xâm lược nhà nghề. Song, Hải quân nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi oanh liệt, làm nên truyền thống “đánh thắng trận đầu” vô cùng vẻ vang của Quân chủng; đây là mốc son chói sáng trong lịch sử chiến đấu, xây dựng, trưởng thành của Quân chủng Hải quân anh hùng. Chiến thắng ngày 2 và 5 tháng 8 năm 1964 có ý nghĩa hết sức quan trọng, rút ra một số Bài học về tinh thần dám đánh, quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược của Hải quân Việt Nam:

Một là, phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện bộ đội thật sự vững mạnh về mọi mặt, trước hết là vững mạnh về chính trị. Đây là bài học đồng thời cũng là yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên quan trọng có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến tinh thần dám đánh, quyết đánh và quyết thắng. Do vậy phải làm tốt công tác chuẩn bị cho bộ đội về mọi mặt trước khi chiến đấu, đặc biệt là nâng cao nhận thức trách nhiệm, thông suốt nhiệm vụ, xây dựng lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, bản lĩnh chiến đấu tốt, ý chí quyết tâm cao, có niềm tin vững chắc, không sợ khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh quyên mình vì Tổ quốc, luôn đề cao cảnh giác, chấp hành nghiêm kỷ luật chiến trường, tích cực, chủ động, mưu trí, dũng cảm và quyết tâm đánh địch trong mọi tình huống.

Hai là, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động, tích cực bảo đảm sẵn sàng và chiến đấu thắng lợi, không để bị bất ngờ trong bất kỳ tình huống nào. Đây là bài học thường xuyên quan trọng, là yêu cầu có tính nguyên tắc trong giáo dục, huấn luyện, rèn luyện bộ đội, một trong những cơ sở bảo đảm cho tinh thần dám đánh, quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ ngay từ đầu trận chiến đấu. Chính vì nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động, tích cực trong nắm, phân tích tình hình diễn biến trên chiến trường và dự báo đúng âm mưu, thủ đoạn của địch, khi có chỉ đạo của trên, các lực lượng trong quân chủng đã chủ động làm tốt công tác chuẩn bị sẵn sàng đập tan âm mưu mở rộng chiến tranh đánh phá của đế quốc Mỹ ra miền Bắc, nên Phân đội 3 tàu phóng lôi đã được lệnh bí mật rời căn cứ Vạn Hoa vào ngày 2 tháng 8 năm 1964 để cơ động vào phía nam để sẵn sàng xuất kích đánh tàu địch.

Ba là, nêu cao tinh thần tự lực tự cường, khắc phục khó khăn, gian khổ, trong mọi điều kiện hoàn cảnh cho dù chúng có khả năng hơn ta gấp nhiều lần. Đây là bài học có ý nghĩa giá trị rất quan trọng đối với Quân chủng cũng như toàn quân và nhân dân. Chiến thắng trận đầu ngày 2 và 5 tháng 8 năm 1964 đã minh chứng trí thông minh, lòng dũng cảm, tinh thần tự lực tự cường vượt qua những khó khăn, thách thức ác liệt, nêu cao ý chí không bao giờ bị khuất phục để hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam.

Vũ khí, trang bị kỹ thuật của Lữ đoàn 170 luôn được bảo đảm tốt cho thực hiện các nhiệm vụ

Đứng trước một kẻ thù đầu sỏ của chủ nghĩa đế quốc, một thế lực lớn đầy nguy hiểm, xảo quyệt, hơn ta gấp nhiều lần cả về tiềm lực kinh tế, trang bị vũ khí kỹ thuật và kinh nghiệm hoạt động chiến đấu trên biển. Tàu khu trục Mỹ rất lớn, có hỏa lực mạnh, máy bay tốc độ cao, phương tiện trang bị kỹ thuật hiện đại…, trong khi tàu phóng lôi của ta nhỏ bé, trang bị ngư lôi chạm nổ trong điều kiện tác chiến biển sóng gió lớn, cùng lúc ta phải đánh trả cả máy bay, tàu chiến của địch; vũ khí trang bị kỹ thuật chiến đấu phòng không hạn chế, không có lực lượng hỗ trợ (2-8) hoặc có nhưng không nhiều (5-8), nhưng cán bộ, chiến sĩ ta đã không những không sợ mà còn dám đánh, quyết đánh và quyết tâm đánh thắng chúng. Chúng ta đã biết khai thác những điểm yếu, sơ hở của địch (xâm phạm trái phép vùng biển, vùng trời của ta nên sợ ta giáng trả; tàu khu trục lớn nên khả năng cơ động chiến đấu kém; máy bay hoạt động xa căn cứ nên nhiên liệu không bảo đảm cho kéo dài thời gian tác chiến, từ xa đến nên nhận dạng mục tiêu chậm…), tận dụng thế mạnh và vũ khí trang bị hiện có của ta. Chủ động theo dõi mọi hoạt động xâm phạm của tàu địch, âm mưu, ý đồ gây chiến tranh của kẻ thù, chủ động đề ra phương án tác chiến, tìm thời cơ thuận lợi nhất để đánh địch đạt hiệu quả, buộc địch phải chuyển từ thế chủ động thành bị động theo cách đánh của ta. 

Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó đặc biệt coi trọng công tác tổ chức lãnh đạo, chỉ huy và nắm chắc lực lượng, chỉ đạo chặt chẽ từng giai đoạn của cuộc chiến đấu, bảo đảm yếu tố bí mật bất ngờ, nắm chắc thời cơ, vận dụng cách đánh hợp lý, đạt hiệu quả cao.

Thắng lợi của trận chiến đấu là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố mà trong đó yếu tố giữ vai trò quan trọng là vấn đề tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, điều hành chiến đấu, năng động, linh hoạt trong sử dụng lực lượng và vận dụng các biện pháp tác chiến đúng thời cơ, có hiệu quả chiến đấu cao.

Từ thực tế chiến đấu ngày 2 và 5 tháng 8 năm 1964 đã cho thấy, để các tàu chiến đấu của ta dám đánh và giành thắng lợi, cùng với việc tổ chức phối hợp hiệp đồng chặt chẽ giữa mọi cán bộ, chiến sĩ trong từng đơn vị, giữa các đơn vị, lực lượng với nhau, giữa cấp trên với cấp dưới và giữa các mặt, các lĩnh vực hoạt động, chúng ta còn phải làm tốt công tác tổ chức lãnh đạo, chỉ huy và điều hành chiến đấu. Đây là yếu tố có vai trò hết sức quan trọng để phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của đơn vị trong quá trình chiến đấu. Cũng từ chiến thắng trận đầu đã cho ta thấy rằng trong các trận đánh trên biển với bất kỳ đối tượng tác chiến nào, thì việc nắm thời cơ là vô cùng quan trọng, phải bám sát tình hình, nắm chắc về địch, phân tích, dự báo chính xác những gì có thể xảy ra, từ đó tính toán các yếu tố để tiếp cận địch nhanh nhất, bảo đảm được bí mật, chiếm lĩnh vị trí có lợi để chớp thời cơ tiến công địch có hiệu quả nhất. Đồng thời, biên đội chiến đấu phải biết phát huy tính năng kỹ thuật, chiến thuật của con tàu và các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật trên tàu để hạn chế thiệt hại khi hỏa lực từ tàu và máy bay địch tập kích.

Năm là, luôn giữ vững tính tổ chức, tính kỷ luật, đoàn kết hiệp đồng và làm tốt công tác chính sách trong chiến đấu. Kỷ luật là sức mạnh của Quân đội. Giữ vững tính tổ chức, tính kỷ luật là một trong những nét đặc trưng của Quân đội và là nguyên tắc trong duy trì điều lệnh kỷ luật của người quân nhân, đặc biệt trong chiến đấu thì yêu cầu tính tổ chức, tính kỷ luật càng phải được thực hiện nghiêm ngặt. Mọi mệnh lệnh của người chỉ huy, các nền nếp, chế độ, điều lệnh, điều lệ quân đội, điều lệnh tàu được thực hiện nghiêm là cơ sở bảo đảm cho chiến đấu thắng lợi.

Trong chiến đấu ngày 2 và 5 tháng 8 năm 1964, mặc dù đang huấn luyện ở xa căn cứ nhưng Tiểu đoàn 135 tàu phóng lôi đã chấp hành mệnh lệnh, nhanh chóng trở về khẩn trương làm công tác chuẩn bị để kịp thời lên đường làm nhiệm vụ. Dù chưa được phổ biến phương án đánh địch nhưng vẫn chấp hành nghiêm mệnh lệnh xuất kích; mất liên lạc với cấp trên vẫn chủ động tác chiến. Quá trình chiến đấu đã phát huy tốt mối đoàn kết, hiệp đồng chặt chẽ giữa các ngành, các vị trí trong toàn tàu, giữa các tàu trong biên đội, trong cụm chiến đấu, giữa Hải quân với các lực lượng đơn vị vũ trang trên địa bàn và với Đảng bộ, chính quyền, nhân dân, dân quân du kích địa phương; vừa chiến đấu vừa làm tốt công tác chính sách, nhất là chính sách thương binh, liệt sỹ. Đó là yêu cầu mang tính nguyên tắc thường xuyên quan trọng đối với đơn vị trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, huấn luyện, học tập, công tác, xây dựng đơn vị.

Sáu là, không ngừng nâng cao trình độ làm chủ khoa học kỹ thuật quân sự, khai thác sử dụng hiệu quả các loại vũ khí trang bị kỹ thuật hiện có. Con người là “tổng hòa của các mối quan hệ” xã hội, chủ thể, nhân tố trung tâm giữ vai trò quyết định nhất đối với sự vận động, phát triển của xã hội. Mọi nhân tố khác có vai trò rất quan trọng, nhất là phương tiện phục vụ cho con người trong quá trình thực hiện mục đích của mình. Vì vậy, con người phải luôn nắm vững và phát huy tác dụng của các phương tiện một cách có hiệu quả trong quá trình vận động, phát triển của xã hội.

Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, nếu chỉ giáo dục, xây dựng cho người quân nhân có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm cao, tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng khắc phục khó khăn, sẵn sàng nhận nhiệm vụ,… thì chưa đủ, mà cần phải bồi dưỡng, giáo dục cho người quân nhân có trình độ làm chủ về khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học quân sự, nắm vững các nguyên tắc, phương án, phương châm, tư tưởng chỉ đạo tác chiến; có trình độ về kỹ thuật, chiến thuật quân sự, nắm vững tính năng, tác dụng và sử dụng thành thạo, phát huy có hiệu quả các loại vũ khí trang bị hiện có. Đó là yêu cầu có tính nguyên tắc cao trong giáo dục, huấn luyện, bồi dưỡng bộ đội trở thành những người quân nhân có đủ điều kiện để thực hành chức trách nhiệm vụ.

Khi chiến đấu, tình huống diễn biến rất nhanh và nảy sinh nhiều sự cố phức tạp mà lúc bình thường không lường hết được. Sự tinh thông kỹ thuật sẽ làm cho thao tác của người chiến sĩ nhanh nhẹn, chính xác, kịp thời và sẽ tạo ra khả năng giành thắng lợi cao. Nếu không nắm chắc kỹ thuật sẽ dẫn đến lúng túng, vụng về để lỡ thời cơ tiêu diệt địch, thậm chí còn bị thương vong.

Đại tá NGUYỄN ĐĂNG ĐẠI

Chính ủy Lữ đoàn 170 Vùng 1 Hải quân