Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, các cơ quan chiến lược đã tham mưu giúp Quân ủy Trung ương chuẩn bị kế hoạch và những biện pháp lớn về quân sự, chính trị như: Nghiên cứu xác định kế hoạch chiến lược chung; kế hoạch tác chiến cho từng chiến trường; nhanh chóng tổ chức xây dựng, huấn luyện các binh đoàn chủ lực dự bị chiến lược, các sư đoàn, các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích ở các chiến trường, các quân khu, các quân chủng, binh chủng kỹ thuật, lập kế hoạch củng cố, bổ sung quân số, trang bị cho các đơn vị ở miền Nam và miền Bắc; kế hoạch tổ chức hệ thống đường cơ động chiến lược, chiến dịch tới các chiến trường; kế hoạch chi viện vật chất cho chiến trường…
Bộ đội ta đánh chiến Bộ Tổng tham mưu quân đội ngụy Sài Gòn (Ảnh tư liệu)
Từ cuối năm 1973, Đảng ta đã quyết định xây dựng lực lượng dự bị chiến lược ở hai miền, lần lượt hình thành các quân đoàn chủ lực cơ động, đồng thời cử các tướng lĩnh có nhiều kinh nghiệm trận mạc làm Tư lệnh và Chính ủy các quân đoàn và tiến hành kiện toàn Đoàn 559 thành binh đoàn chiến lược bộ đội hợp thành. Từ cuối năm 1973 đến tháng 7-1974, chúng ta đã xây dựng được 5 binh đoàn chủ lực cơ động chiến lược; các đơn vị hậu cần, bảo đảm chiến lược; củng cố, tăng cường các quân chủng, binh chủng; các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, biệt động thành, dân quân du kích… của các quân khu, mặt trận, các địa phương. Trong quá trình Tổng tiến công, ta còn tăng cường cho miền Nam 3 sư đoàn bộ binh cùng nhiều đơn vị binh chủng, tổ chức thêm 3 sư đoàn chủ lực cho chiến trường Nam Bộ. Đến thời điểm đó, các binh đoàn chủ lực của ta có sức mạnh chiến đấu hơn hẳn quân chủ lực ngụy. SMTH về quân sự còn thể hiện trong tổ chức tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương và chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, kết hợp tác chiến của bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, binh viện và ngoại giao. Trong đó sức mạnh quân sự là nòng cốt, đóng vai trò quyết định thắng lợi trong chiến tranh.
Cùng với việc tạo SMTH về quân sự, ta còn tập trung xây dựng sức mạnh chính trị-tinh thần, nhân tố cơ bản của SMTH của dân tộc ta. Tới năm 1975 sức mạnh chính trị-tinh thần đã phát triển đến đỉnh cao, trở thành một cao trào trong cả nước, từ hậu phương tới tiền tuyến, từ nông thôn tới thành thị, đến từng gia đình, từng con người. Lực lượng chính trị ở miền Bắc đã phát huy tác dụng to lớn trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân và phát triển kinh tế tham gia chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Ở miền Nam, khí thế cách mạng của quần chúng được dâng cao chưa từng có, từ rừng núi đến đồng bằng, từ thành thị đến nông thôn, đâu đâu cũng sục sôi khí thế tiến công và nổi dậy. Được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tại chỗ, nhân dân các tỉnh ở đây đã tiến hành một cuộc nổi dậy mạnh mẽ, rộng khắp, cùng bộ đội chủ lực đánh đòn quyết định giành thắng lợi trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Về chuẩn bị vật chất, ta đã tập trung cao độ lượng dự trữ vật chất, bảo đảm cho các chiến trường 413.450 tấn đạn, gấp hơn 7 lần cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Tổ chức xây dựng các kho vật chất kỹ thuật, dự trữ xăng dầu ở Trị Thiên với sức chứa 60.000 tấn vật chất, 27.000m3 xăng dầu. Xây dựng hệ thống kho tàng chiến lược ở khu 5 và Tây Nguyên. Trực tiếp chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, hậu cần miền đã tổ chức các đầu cầu tiếp nhận hàng của tuyến vận tải chiến lược và các kho tổng dự trữ hậu cần chiến dịch trên các hướng tiến công. Đoàn 770 tổ chức kho dự trữ ở Đồng Xoài, Đoàn 220 triển khai cụm kho ở An Lộc… chính những kho dự trữ tại chỗ đã bảo đảm có hiệu quả cho các đơn vị chủ lực tiến công giải phóng Sài Gòn. Cùng với hệ thống kho trạm dự trữ vật chất, ta còn xây dựng các xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí, tổ chức bảo đảm quân y, bảo đảm vũ khí kỹ thuật, cứu chữa thương binh và bảo đảm sức khỏe cho bộ đội chiến đấu giành thắng lợi.
Phát huy sức mạnh thời đại, ta đã tranh thủ sự ủng hộ cao nhất của quốc tế cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Một thuận lợi cho tổng tiến công là sự ủng hộ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, trụ cột của hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc, sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân thế giới cùng phong trào giải phóng dân tộc, làm cho tương quan so sánh lực lượng có lợi cho ta. Sự đoàn kết, ủng hộ quốc tế về vật chất và tinh thần là biểu hiện của sức mạnh thời đại mà chúng ta đã biết sử dụng sức mạnh đó được kết hợp chặt chẽ với sức mạnh dân tộc, tạo nên SMTH cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Bốn mươi mốt năm đã trôi qua, bài học về tạo SMTH trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là những kinh nghiệm vô cùng quý báu trong chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Để phát huy sức mạnh dân tộc, chúng ta phải tự xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt kết hợp với hội nhập và hợp tác quốc tế sâu rộng, phát huy sức mạnh thời đại kết hợp với sức mạnh dân tộc tạo nên SMTH trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trung tướng, GS, TS NGUYỄN NGỌC THANH (Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư ngành KHQS)