Âm mưu và thủ đoạn của quân Pháp đã được Trung ương nêu rõ trong chỉ thị: Phải phá cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp. “Địch vừa mở đầu chiến dịch mùa đông ở Bắc Bộ, bằng những cuộc nhảy dù và đổ bộ sau lưng quân ta, bằng những cuộc hành quân đánh thẳng vào Việt Bắc và chiếm đóng các thị trấn ngăn cách Việt Bắc và miền xuôi”[1]. Quân và dân Việt Bắc bình tĩnh phản công làm cho địch thiệt hại: Học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn tiêu diệt hàng chục quân nhảy dù xuống cạnh nhà trường (7-10-1947); đội cao xạ ở Cao Bằng hạ được một máy bay, tiêu diệt hơn 10 tên địch, trong đó có một võ quan cao cấp Pháp-Phó tham mưu trưởng quân Pháp ở chiến trường Bắc Bộ (9-10-1947); bộ đội đánh lui quân địch đổ bộ lên Bình Ca, thuộc Tuyên Quang (13-10-1947); bộ đội và dân quân phối hợp đột kích Chợ Mới, nã đại bác phá kho của địch (15-10-1947); dân quân xã Thanh Mai (Bắc Kạn) tiêu diệt hai quân nhảy dù (8-10-1947); Vệ quốc quân phản công đánh Cao Bằng (tháng 10-1947). Riêng với Bắc Kạn, ngày 9-10-1947, Trung ương có chỉ thị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh ủy Bắc Kạn nêu rõ: “Dùng lực lượng bộ đội, dân quân du kích và toàn dân bao vây địch chung quanh tỉnh lỵ, giam chân chúng ở đó, không cho chúng chiếm tỏa ra, đặc biệt ngăn địch trên mấy đường: Bắc Kạn - Chợ Đồn, Bắc Kạn - Chợ Rã, Bắc Kạn - Cao Bằng, Bắc Kạn - Chợ Mới, Bắc Kạn - Na Rì, Bắc Kạn - Chợ Chu”. Ngày 19-12-1947, quân Pháp buộc phải rút khỏi Việt Bắc.

      Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 là sự kiểm nghiệm tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng. Đó là chiến dịch đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, là chiến dịch phản công đánh thắng cuộc tiến công chiến lược của địch lên Việt Bắc, bảo vệ an toàn căn cứ kháng chiến. Thắng lợi Việt Bắc là sự thể hiện sinh động thế trận chiến tranh nhân dân, kết hợp nhiều lực lượng, nhiều hình thức tác chiến, dùng lực lượng nhỏ đánh địch vận động trên bộ, trên sông, bẻ gãy từng gọng kìm của địch. Chiến thắng Việt Bắc đã góp phần quyết định làm thất bại chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” của địch, đưa kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới.

Sự kiểm nghiệm đường lối thể hiện ở chính sự chuyển hóa so sánh lực lượng giữa ta và địch, ở quy mô thắng lợi và hiệu suất chiến đấu. Năm 1947, địch có 12,8 vạn quân, trong đó 8,5 vạn quân Âu-Phi và 4,3 vạn quân ngụy trên toàn chiến trường Đông Dương, 108 khẩu pháo, 32 xe tăng, thiết giáp, 98 máy bay, 70 tàu chiến. Lực lượng kháng chiến Việt Nam có 8,2 vạn và 12 khẩu pháo. Tuy quân chủ lực của ta ít hơn địch nhưng với đường lối chiến tranh nhân dân, đến mùa hè 1947, có hơn 1 triệu người gia nhập các đơn vị dân quân, tự vệ, du kích; 35.000 người nhập ngũ, nâng số bộ đội chủ lực lên 12 vạn. Trong Chiến dịch Việt Bắc, địch huy động 1,2 vạn quân tinh nhuệ, được trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại (máy bay, tàu chiến, đại bác) nhưng đã thất bại trước lực lượng vũ trang mới được xây dựng trong 3 năm trang bị còn rất thô sơ. Bộ đội chủ lực của ta đã phân tán thành 30 đại đội độc lập và 18 tiểu đoàn tập trung, phối hợp chặt chẽ với dân quân, du kích đánh thắng nhiều trận lớn trên sông Lô, bắn chìm 16 tàu chiến, 38 ca nô của địch; diệt hàng trăm địch trên Đường số 3, Đường số 4 - Pháp gọi là “con đường máu”; 18 máy bay địch bị hạ. Toàn chiến dịch: 3.300 quân xâm lược Pháp bị tiêu diệt, 3.900 tên bị thương, 270 tên ra hàng. Đó là tổn thất nặng nề của địch và cũng tỏ rõ sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Chiến thắng Việt Bắc đã chứng minh quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang, coi trọng cả lực lượng chủ lực và dân quân du kích thực hiện vũ trang toàn dân; toàn dân đánh giặc. Thời điểm của Chiến dịch Việt Bắc có lực lượng chủ lực và dân quân, du kích, sau này còn phát triển bộ đội địa phương-như Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là “đội quân đàn em”. Dù lực lượng nào cũng đều xuất thân từ nhân dân, chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong Chiến dịch Việt Bắc, không chỉ có hoạt động phối hợp chiến đấu của quân chủ lực với dân quân, du kích mà nhân dân các dân tộc ở Việt Bắc còn ủng hộ, giúp đỡ về vật chất, thực hiện nhiệm vụ của hậu phương trong khi cung cấp hậu cần của Chính phủ còn có nhiều khó khăn. Trước khi mở chiến dịch, ngày 27-5-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh có thư gửi nam nữ chiến sĩ dân quân, tự vệ và du kích toàn quốc đang họp hội nghị tại Việt Bắc. Người nêu rõ: “Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”[2].

Đề ra đường lối chiến tranh nhân dân, Đảng chú trọng hình thức, phương pháp tác chiến, triệt để dùng du kích, vận động chiến. Chiến dịch Việt Bắc đã sử dụng thành công cách đánh đó trong từng trận đánh và toàn chiến dịch. Đường lối cũng đặt ra yêu cầu bảo toàn thực lực để kháng chiến lâu dài. Thực tế, với Chiến thắng Việt Bắc, ta đã bảo vệ vững chắc căn cứ địa kháng chiến của cả nước, cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ; đồng thời vừa đánh vừa phát triển lực lượng, vừa vũ trang thêm, đào tạo cán bộ từ thực tiễn chiến đấu, có được đội ngũ chỉ huy dũng cảm, mưu trí, bản lĩnh. Chiến dịch Việt Bắc diễn ra đã có sự phối hợp từ các chiến trường, đánh địch ngay trong địa bàn địch đã chiếm đóng và kiểm soát. Đó là sự chia lửa cùng Việt Bắc.

Sau khi Chiến dịch Việt Bắc kết thúc, ngày 21-1-1948, Trung ương Đảng có văn bản Phụ chú một điểm trong Chỉ thị Trung ương ngày 15-10-1947. Văn bản đã làm rõ quy luật chiến tranh là gì, và cũng thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế của ta: “Trong việc chuẩn bị chiến dịch mùa đông vừa rồi, ta chủ quan đánh giá quá thấp địch, không đoán đúng được mưu mô của địch, hoặc đoán không đến nơi, hơn nữa, không nhận rõ quy luật chiến tranh nói chung và quy luật chiến tranh Việt-Pháp, nhưng thất bại đầu tiên ở Bắc Kạn, Cao Bằng, Chợ Đồn, Tuyên Quang v.v.. vừa rồi là những bài học dạy cho ta”[3]. Trung ương cũng nêu rõ 5 nhược điểm của địch. Trung ương cho rằng, “lần đầu tiên dân tộc ta phải đối phó với bọn xâm lược mạnh, thao luyện, có võ khí tối tân như bọn Pháp. Ta vừa đánh vừa học, ta luôn luôn gắng sức học cái hay của địch, ta sửa chữa sai lầm của ta, phát triển ưu điểm của ta, lợi dụng triệt để những nhược điểm của địch mà đánh”[4]. Đó cũng chính là sự kiểm nghiệm lại đường lối và phương pháp từ thực tiễn với tinh thần, thái độ nghiêm túc và khoa học.

Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 để lại những bài học quý báu cho quá trình Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng chống xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vì mục tiêu hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Những kinh nghiệm, bài học, cả ở tầm chiến lược và cả về chiến thuật đó vẫn còn nguyên giá trị trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.315.

[2] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.158.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.329-330.

PGS, TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh