Với nhiệm vụ được giao là bảo đảm kỹ thuật cho các tàu chiến đấu đủ khả năng đánh trả các loại tàu chiến, máy bay hiện đại của địch, mặc dù trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn về vật tư, trang bị, nhưng lực lượng làm công tác bảo đảm kỹ thuật Quân chủng Hải quân đã nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao…
Là một trong những cán bộ, chiến sĩ hải quân trực tiếp tham gia chiến đấu, làm nên chiến thắng trận đầu lịch sử, Phó đô đốc Đỗ Xuân Công, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân, cho biết: Ngay từ đầu năm 1964, đứng trước âm mưu của đế quốc Mỹ về việc sử dụng không quân, hải quân để mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Hải quân đã kịp thời họp đề ra nghị quyết và dự kiến về tình hình nhiệm vụ của quân chủng trong năm 1964. Trong đó, đặc biệt quan trọng là nhiệm vụ xác định rõ việc làm tốt công tác chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với trường hợp địch tấn công quy mô lớn ra miền Bắc; hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu, chi viện cho chiến trường miền Nam...
Phân đội trưởng Nguyễn Xuân Bột (người ở giữa) trực tiếp chỉ huy phân đội tàu phóng lôi đánh đuổi tàu khu trục Ma-đốc. Ảnh tư liệu.
Chấp hành mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Hải quân, ngành kỹ thuật Hải quân mà nòng cốt khi đó là lực lượng cán bộ đầu ngành sửa chữa tàu, quân giới, Xưởng 46 và lực lượng của Trạm kỹ thuật Bãi Cháy đã nhanh chóng tổ chức thay thế, lắp đặt một số loại vũ khí mới cho các tàu tuần tiễu K210-A 79 tấn. Cụ thể, đã tiến hành cải tạo toàn bộ khoang đạn, bom chìm, giá nâng đạn, hệ thống làm mát nòng pháo trên các tàu; thay thế pháo 40mm, 20mm một nòng đã cũ bằng pháo 37mm hai nòng và súng máy 14,5mm hai nòng có tốc độ bắn nhanh và chính xác hơn; lắp pháo bắn thẳng DKZ-82 ở phía sau đài chỉ huy để bắn địch ở cự ly gần, lắp thêm giá bom chìm cùng cơ cấu điều khiển thả bom chìm. Mặc dù phải tiến hành sửa chữa, cải tạo vũ khí, trang bị trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn và phải làm 3 ca liên tục, không quản ngày đêm, nhưng lực lượng cán bộ, chiến sĩ kỹ thuật của Quân chủng Hải quân lúc đó vẫn đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Chỉ trong một thời gian ngắn, đến đầu tháng 7-1964, hai phần ba số tàu tuần tiễu của Quân chủng Hải quân đã được thay thế, lắp vũ khí, trang bị hoàn chỉnh.
Cũng thời gian đó, ngành kỹ thuật Hải quân đã tiến hành bảo đảm kỹ thuật cho các tàu phóng lôi 123K, thuộc biên chế của Tiểu đoàn 135 tại căn cứ chính ở đảo Vạn Hoa. Để bảo đảm kỹ thuật cho ngư lôi chiến đấu, trạm sửa chữa và lắp đặt ngư lôi đã tiến hành bảo quản, bảo dưỡng, kiểm định bảo đảm vật tư, khí nén bổ sung cho ngư lôi và tổ chức bắn thử. Việc bắn thử thành công đã góp phần giúp cho cán bộ, chiến sĩ trên các tàu làm chủ được tính năng kỹ chiến thuật của các loại vũ khí mới được nâng cấp, trang bị và có thêm kinh nghiệm khi chiến đấu.
Trước tình hình địch tăng cường hoạt động trên Vịnh Bắc Bộ, cuối tháng 6-1964, Bộ tư lệnh Hải quân đã ra lệnh tiến hành lắp ngư lôi cho 3 tàu của Phân đội 3, Tiểu đoàn 135. Các đồng chí nghiệp vụ trưởng, ngành trưởng Phòng Quân giới, Phòng Sửa chữa tàu trực tiếp xuống các tàu, hướng dẫn lắp ngư lôi trên tàu, huấn luyện bổ sung cho bộ đội; sau đó theo tàu vào Lạch Trường, Thanh Hóa chuẩn bị cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, đánh đuổi tàu Mỹ-ngụy xâm nhập vào vùng biển miền Bắc. Các tàu phóng lôi được lệnh sẵn sàng chiến đấu. Trưa ngày 2-8-1964, các tàu thuộc Phân đội 3 đã xuất kích đánh đuổi tàu khu trục Ma-đốc của đế quốc Mỹ khỏi hải phận miền Bắc, bắn rơi một máy bay và bắn bị thương 1 chiếc khác. Tiếp đó, ngày 5-8-1964, các tàu của Quân chủng Hải quân đã phối hợp với các lực lượng phòng không, dân quân tự vệ và nhân dân kiên cường, dũng cảm đánh trả các đợt không kích của máy bay địch. Tổng cộng, quân và dân ta đã bắn rơi 8 máy bay phản lực hiện đại của Mỹ và bắn bị thương nhiều chiếc khác, làm nên chiến công oanh liệt đánh thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng.
Trong hồi ký của mình, Đại tá Nguyễn Xuân Bột, nguyên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 172 Hải quân, Phân đội trưởng Phân đội 3 thuộc Tiểu đoàn 135, người trực tiếp chỉ huy 3 tàu phóng lôi đánh đuổi tàu khu trục Ma-đốc trong trận chiến đấu ngày 2-8-1964 kể lại: “Đêm 31-7, rạng sáng 1-8-1964, Mỹ cho tàu khu trục Ma-đốc tiến vào vùng biển thuộc tỉnh Quảng Bình để thu thập tin tức tình báo, đồng thời khiêu khích lực lượng Hải quân của ta. Thời điểm đó, phân đội tàu phóng lôi của chúng tôi đang luyện tập ở vùng biển Vạn Hoa (Quảng Ninh) thì nhận được lệnh lắp ngư lôi, hành quân gấp vào vùng biển Hòn Mê (Thanh Hóa) đón đánh tàu khu trục Ma-đốc. Khi đó, phân đội của chúng tôi có 3 tàu, gồm 333, 336, 339. Nhưng xét về mức tương quan lực lượng giữa hai bên lúc ấy thì có thể ví như “trứng chọi đá”, vì tàu khu trục Ma-đốc thuộc loại hiện đại, tối tân bậc nhất của Hải quân Mỹ lúc đó. Ra-đa của tàu Ma-đốc có thể phát hiện tàu phóng lôi nhỏ ở cự ly 10-14 hải lý. Các giàn phóng bom trên tàu khu trục Ma-đốc vừa dùng để đánh tàu ngầm, vừa có thể phá các quả ngư lôi của đối phương khi phóng vào tàu. Trong khi đó, mỗi tàu phóng lôi của ta chỉ vẻn vẹn 2 quả ngư lôi, 1 bệ pháo 14,5mm. Theo tính toán của các chuyên gia vũ khí, thông thường phải cần tới 12 tàu với 24 quả ngư lôi, hình thành 4 mặt quạt mới có thể đánh trúng được 1 quả ngư lôi vào tàu khu trục Ma-đốc. Mặc dù vậy, nhưng với tinh thần "quyết chiến, quyết thắng", chúng tôi đã góp phần cùng quân và dân ta làm nên trận chiến thắng lịch sử… Cũng phải nói thêm rằng, trong trận chiến đấu đó, nếu không được cấp trên bảo đảm tốt về mặt trang bị, kỹ thuật và cho phép chúng tôi được bắn tập từ trước để làm quen với vũ khí, thì khi vào trận chúng tôi sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì đây là lần đầu tiên Hải quân của chúng ta dùng ngư lôi đánh tàu địch…”.
TÔ HẢI NAM