QĐND Online – Đáp ứng nhu cầu của bạn đọc quan tâm tới sức mạnh hải quân của các nước trên thế giới, đặc biệt là tàu sân bay, dòng chiến hạm khổng lồ hiện có trong biên chế nhiều cường quốc quân sự, báo QĐND Online xin giới thiệu tới bạn đọc loạt bài về một trong những dòng tàu sân bay rất đươc quan tâm hiện nay là lớp Kreml:

Trong tác chiến hải quân hiện đại, vai trò của các hạm đội tàu sân bay (HĐTSB) là rất quan trọng. Sức mạnh của HĐTSB đến từ khả năng phối hợp công-thủ giữa các chiến hạm trong nhóm tàu và các đơn vị máy bay chiến đấu mang theo. HĐTSB cũng là chìa khóa tiến ra “vùng biển xanh” (đại dương) của các cường quốc quân sự.

Tuy ra đời chưa lâu (thế chiến I), nhưng rất nhiều quốc gia trên thế giới đã chú ý tới tàu sân bay, đặc biệt vai trò của nó trong thế chiến thứ 2 tại Thái Bình Dương thông qua sự đối đầu giữa hải quân Nhật Bản và Mỹ với một loạt các hải chiến lớn có mặt tàu sân bay như: Trân Châu Cảng, Midway…

USS George H.W. Bush (CVN-77) lớp Nizmit của Mỹ.

Do kỹ nghệ chế tạo đắt đỏ và cơ cấu hoạt động phức tạp, nên chỉ có các quốc gia có tiềm lực cả về công nghệ và kinh tế mới có điều kiện sở hữu các tàu sân bay. Trên thế giới có thể ghi nhận 2 trường phái tàu sân bay là "tấn công" (Mỹ, Phương Tây) và "phòng thủ" (Liên bang Xô viết). Trong khi các HĐTSB của Mỹ được biết tới rộng rãi, thì các dòng tàu sân bay của Nga và hạm đội kèm theo lại rất “kín tiếng”.

Vậy HĐTSB của Nga có điểm gì khác biệt?

Tuần dương hạm hay tàu sân bay?

Sau thế chiến thứ 2 và trong chiến tranh lạnh, do đã có kinh nghiệm chế tạo và kinh nghiệm sử dụng từ cuộc chiến trên Thái Bình Dương, nên Mỹ sở hữu một số lượng đáng kể các HĐTSB. Trong khi đó, Liên bang Xô viết do không đủ tiềm lực, kinh nghiệm sử dụng dòng vũ khí hải quân hiện đại này (so với Mỹ), đã phải tìm cho mình chiến lược hải quân riêng để làm đối trọng.

Để đối trọng lại với các HĐTSB của Mỹ, Liên bang Xô viết chú trọng phát triển các đơn vị tàu ngầm nguyên tử tấn công mang tên lửa hành trình diệt hạm tầm xa như: tàu ngầm thuộc Đồ án 971 Shchuka-B, 945 Bаrrаcudа, 671RTM Shuka…, còn các lớp tàu mặt nước trong biên chế chủ yếu mang ý nghĩa phòng thủ, bảo vệ chủ quyền, tuần tra…

Tàu ngầm nguyên tử tấn công lớp Shuka.

Ý thức được sự nguy hiểm của từ các HĐTSB, hầu hết các chiến hạm của hải quân Liên bang Xô viết đều được vũ trang mạnh bằng các tổ hợp pháo, tên lửa phòng không các tầm nhằm nâng cao khả năng đối phó với các mối đe dọa từ trên không. Ngoài ra, chiến hạm của hải quân Xô viết còn được trang bị các tổ hợp tên lửa hành trình diệt hạm tầm xa với mục đích “sống sót, bắn trước và có thể tiêu diệt trước”.

Tuy nhiên, vì sự ưu việt trong khả năng thực hiện nhiệm vụ đa nhiệm và khả năng phòng không hạm đội của tàu sân bay, hải quân Xô viết cũng đã bắt tay vào phát triển các dòng tàu sân bay của riêng mình với đặc điểm đặt nặng tính phòng thủ và khả năng độc lập tác chiến cao hơn nhiều so với vai trò đơn thuần là căn cứ nổi như các hạm tàu sân bay của Mỹ và Phương Tây. Tuy nhiên, tàu sân bay của hải quân Xô viết lại mang được ít máy bay và khí cụ hỗ trợ tác chiến hơn. Đáp ứng các yêu cầu này, một dạng tàu sân bay “con lai” đã ra đời.

Điển hình cho mô hình học thuyết tàu sân bay của Liên bang Xô viết là tuần dương hạm tên lửa hạng nặng mang máy bay (TAVKR) thuộc Đồ án 1143.5 Kremly với 2 chiến hạm loại này còn tồn tại tới ngày nay là Kuznetsov (hải quân Nga sở hữu), hạ thủy năm 1985 và chiếc Varyag chưa hoàn thiện (Trung Quốc mua lại của Ukraine từ năm 1998), hạ thủy năm 1988. Mỹ và Phương Tây đã dành cho lớp chiến hạm thuộc Đồ án 1143.5 biệt danh “Tên đồ tể mang máy bay” vì trang bị vũ khí hạng nặng của lớp tàu này.

TAVKR Admiral Kuznetsov lớp Kreml

Sau khi hoàn thiện tàu sân bay lớp Kreml, Liên bang Xô viết đã bắt tay vào phát triển các lớp tàu sân bay hoàn thiện, có tính kế thừa hơn (vừa có Skijump, vừa có máy phóng hơi nước và mang động cơ hạt nhân…) là Đồ án 1153/1160 và 1143.7, nhưng sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, các Đồ án tàu sân bay nói trên đều bị hủy bỏ. Mới đây, Nga đã nối lại việc phát triển và dự kiến đóng mới các hạm tàu sân bay mới trong tương lai gần.

TAVKR “vũ trang hạng nặng” với nhiều điểm khác biệt

Trong khi hầu hết các tàu sân bay của Phương Tây và Mỹ đều được trang bị động cơ hạt nhân để đảm bảo khả năng tác chiến không giới hạn, thì TAVKR lại mang 8 động cơ nồi hơi và 4 động cơ turbin khí có tổng công suất khoảng 280.000 mã lực. Với trang bị như trên, TAVKR thuộc Đồ án 1143.5 có khả năng đạt tốc độ tối đa tới 30 hải lý/giờ và tầm hoạt động đạt khoảng 14.000 km với tốc độ hành trình 18 hải lý/giờ.

Một điểm đặc biệt nữa ở TAVKR là việc sử dụng dốc phóng (Skijump) nghiêng 12 độ giúp máy bay cất cánh trên boong thay vì các máy phóng hơi nước trên các tàu sân bay của Mỹ. Việc này giúp đơn giản hóa kết cấu của tàu và dành không gian cho các trang bị vũ khí dưới boong. Ở phương Tây, chỉ có lớp tàu sân bay Invincible của hải quân Anh là dùng kết cấu giúp máy bay cất cánh dạng này.

Trang bị máy bay cơ bản trên boong của TAVKR thuộc đồ án 1143.5 là 33 máy bay cánh cố định gồm: Su-33, Mig-29K, Su-25 UTG/UBP và Yak-41M (đã bị loại bỏ), và 22 máy bay trực thăng hải quân gồm: Ka-27-LD (chức năng cảnh báo và chỉ huy trên không - AWACS), Ka-27 PLO (săn ngầm) và Ka-27-S (tìm kiếm-cứu nạn). Tổng diện tích mặt sàn trên boong của TAVKR đạt 14.700 m vuông.

Chiến đấu cơ Su-33 chuẩn bị cất cánh

Để cảnh giới trên không, TAVKR sử dụng radar băng tần D/E, radar tìm kiếm mục tiêu bề mặt băng tần F, chỉ huy bay băng tần G/H, dẫn đường băng tần I và dẫn bắn cho các tổ hợp vũ khí phòng không tầm cực ngắn (CIWS) là 4 radar băng tần K. Ngoài ra, TAVKR còn được trang bị trang bị sonar thủy âm gắn cố định trên thân và thiết bị tìm kiếm hạ âm để phát hiện và tấn công các mục tiêu dưới nước.

Trong khi các tàu sân bay của Phương Tây và Mỹ chỉ mang các tổ hợp vũ khí phòng thủ cơ bản, còn nhiệm vụ phòng thủ hạm đội chủ yếu là của các chiếm hạm hộ tống, thì trang bị của TAVKR gần như tương đương với một tuần dương hạm hạng nặng thực sự.

Để nâng cao hiệu quả phòng không, TAVKR mang theo 24 bệ phóng tên lửa phòng không tầm ngắn 3K95 Kinzhal (Tor “hải quân”) với 192 đạn tên lửa có tầm bắn hiệu dụng đạt 12 km và tầm cao 6 km. Kết hợp với Kinzhal, 8 tổ hợp pháo/tên lửa CIWS Kortis (Kashtan), gồm 8 đạn tên lửa 9M311 và 2 pháo nòng xoay 30mm GSh-6-30 cho mỗi tổ hợp, và 6 tổ hợp pháo phòng không cực nhanh AK-630 30mm đảm bảo khả năng tiêu diệt các mục tiêu bay và xuồng cao tốc đối phương muốn “tiếp cận” chiến hạm này. Phục vụ phòng thủ chống ngầm, TAVKR được trang bị 2 tổ hợp rocket săn ngầm RBU-12000 UDAV-1 (12.000 là phạm vi hoạt động của tổ hợp – 12 km) với 60 đạn rocket trong bệ.

Các thiết bị phóng chứa tên lửa hành trình diệt hạm P-700 Granit trên TAVKR Admiral Kuznetsov

Vũ khí tiến công chủ lực của chiếc chiến hạm có trọng tải 55.200 tấn (khi cần có thể đạt 58.600 tấn) này chính là 12 bệ phóng trang bị đạn tên lửa hành trình diệt hạm siêu thanh P-700 Granit (tên NATO SS-N-19 Shipwreck) nằm ngay dưới boong tàu. Dòng tên lửa siêu thanh nặng 7 tấn này có khả năng tiêu diệt các phương tiện tàu nổi của đối phương ở phạm vi 550-625 km ở vận tốc siêu thanh đạt Mach 1,6 – 2,5. Với cơ chế dẫn đường đa dạng (quán tính pha đầu, hiệu chỉnh đường bay pha giữa và tự dẫn chủ động pha cuối), P-700 tấn công mục tiêu bằng đầu đạn thông thường nặng 750 kg hoặc đầu đạn hạt nhân chiến thuật có sức công phá 500 Kilotone. Đây là dòng vũ khí “đặc sản” của Nga, mà Phương Tây và Mỹ không có dòng vũ khí tương đương.

Với trang bị như trên, khi hoạt động trong hạm đội, TAVKR có vai trò chính là phòng không hạm đội, săn ngầm và cường kích (hạn chế). Tuy nhiên, khi hoạt động độc lập, TAVKR cũng có thể đảm nhiệm vai trò kỳ hạm của hạm đội như một tuần dương hạm mang tên lửa hạng nặng.

Tuấn Sơn

(còn nữa)

Kỳ II: …Tới hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc