Xe bị lật nhào do chủ quan

Vượt qua đèo Ang Bun, chúng tôi phải vượt một ngọn đèo khác không cao như Ang Bun nhưng đường vừa làm gấp, dốc tức và trơn trượt. Anh Thanh đi cùng xe tôi “đòi” cầm lái. Anh nắm rõ khu vực này hơn tôi. Mặc dù đang thiếu lái xe nhưng trung đội vẫn bố trí một “tài già” đi cùng để tránh lặp lại chuyện buồn của mùa khô năm trước. Anh Thanh kể rằng: “Hai chiến sĩ lái, mới nhập tuyến vào đơn vị chưa quen “cung độ” đã đi lạc vào trận địa của địch và bị bắt, một người là đảng viên bị chặt đầu treo ở sườn đồi mà xe chúng tôi đi qua để “khủng bố”. Người còn lại bị chúng đưa lên trực thăng bắc loa kêu gọi anh em Tiểu đoàn 58 “quay về với chính nghĩa quốc gia”.

Xe bò từ dưới suối lên, tôi thấy anh đi số 2 và không gài “số phụ”. Trên xe cõng bốn tấn rưỡi gạo có ít đâu! Tôi lo lắng nhắc anh (vì tôi hiểu tính nết cái xe của mình hay nhảy về số “mo” nếu không gài số phụ khi lên dốc). Anh Thanh cao giọng: “Chú mày yên trí, anh là tài Tầu đấy” (lái xe học ở Trung Quốc về). Leo đến gần đỉnh dốc dài hơn 200m, xe “lịm máy”, anh giảm về số 1. “Không được rồi! Xe tụt dốc. Phanh chân, phanh tay hết cỡ mà nó cứ trôi lùi băng băng. Mìn lá dưới bánh xe nổ chát chúa. Anh Đón y tá định mở cửa nhảy xuống, tôi túm áo anh kêu: “Đóng cửa chặt lại!”. Bài học về mở cửa xe nhảy xuống khi xe tụt dốc ở tiểu đoàn tôi đã phải trả bằng một sinh mạng. Bỗng tôi thấy người lộn nhào, quay tròn, một thoáng không cảm giác. Xe lật nhào mấy vòng. Cả xe và gạo lọt thỏm dưới đáy hố bom dù, miệng rộng hàng chục mét. Hoàn hồn, chúng tôi ra khỏi buồng lái. Anh Đón lấy súng AK “xổ” 5 phát một. “Sao lại bắn 5 phát?”, “Chúng mình có ai chết đâu?”. Tôi nói vậy (trên tuyến hiệu súng 5 phát là báo có tử sĩ). Hơn chục phút sau, gần một tiểu đội công binh dùng xe đẩy có tấm chống bom vướng, phạt cây rừng mở lối đến chỗ chúng tôi đang ngồi chờ. Họ mang theo cả vải liệm! Bàn giao xe và gạo lại cho “cánh” công binh giải quyết, chúng tôi quay về nhận xe khác. Tôi được biết, số gạo ấy ngay chiều hôm đó đã được một đơn vị bộ binh hành quân qua khuân hết cả.

Trong Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn. Ảnh: Phú Quý

Xẻ “ray” cho xe lăn xuống dốc

Đoạn đường vào kho của đơn vị tham gia chiến dịch vừa dốc vừa trơn trượt, nguy hiểm. Ba xe của đại đội tôi đã đè chồng lên nhau ở đoạn “cua” gần chân dốc khi xuống. Chúng tôi dừng xe trên đỉnh, nổ 3 phát súng báo hiệu tắc đường. Công binh kéo đến. Chúng tôi yêu cầu xẻ hai rãnh làm “ray” trùng với vết xe lăn từ đỉnh dốc xuống, đến chỗ “cua” đào sâu hơn và lót cành cây để tăng sức cản. Xe được gài số thấp và cầu trước, không sử dụng phanh, lăn từ từ xuống chân dốc. Hiệu quả rõ rệt. Đội hình xe còn lại lần lượt vượt qua. Tưởng chừng chỉ có tàu hỏa, hoặc tàu điện mới đi trên đường ray, hóa ra ô tô cũng có lúc phải đi trên đường ray, nhưng mà “ray…đất”.

Gặp đồng đội đói lả trên đường chiến dịch, càng thêm quyết tâm

Đã hơn 2 tháng, không ngày đêm nào được chợp mắt. Quần quật rong ruổi suốt nẻo đường chiến dịch. Tin tức về hệ thống phòng thủ Đắc Tô, Tân Cảnh của địch bị quân ta đập tan làm nức nòng mọi người, xua đi phần nào mệt mỏi.

Những ngày cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1972, địch càng bắn phá dữ dội, ngăn chặn các ngả đường về thị xã Kon Tum. Bom từ trường “định lần” thả khắp các trọng điểm. Máy bay AC-130 quần thảo từ tối đến sáng. Các xe đã bị cháy, hư hỏng dọc đường từ trước, chúng nghi ngờ bắn lại tất cả. Độ chính xác đến kinh ngạc. Chẳng thế mà có đêm đội hình tám xe của chúng tôi đều bị nó “vồ” được, bắn nát đầu, cháy rụi, mặc dù chúng tôi đã dừng lại và giấu kín trong các “mang cá”.

Trên đường từ các trận địa quay ra để lấy “hàng”, tôi gặp la liệt đồng đội mắc võng bên rìa đường. Vài anh em còn chút hơi sức nhảy lên thùng xe vét từng hạt gạo, hạt muối lẫn đất cát còn rơi rớt dưới sàn xe cho vào túi gùi. “Chết nhiều! Người còn sống lại chẳng có gì bỏ miệng mấy ngày nay rồi! Chúng tớ “quay” ra đây”. Một anh nói vậy và tự giới thiệu: “Chúng tớ người Hải Hưng, Nam Hà, Thái Bình đủ cả”. Trong đầu tôi vọng lại câu ca hay đùa cợt: “Nam chuồn, Hà lủi, Thái Bình bay, Hải Hưng anh dũng trốn ban ngày…”. Đây có lẽ là những hình ảnh thực của câu ca ấy. Nhưng cứ không có ăn, đói lả thế kia thì làm sao trụ nổi trên đời này, chưa nói gì đến đánh đấm nữa. Gặp cánh lính “pháo trời” và “pháo đất” họ cũng giục chúng tôi đưa nhanh đạn và gạo vào, không thì bó tay cả. Chúng tôi kỳ kèo lại: “Các ông phải tìm cách hất thằng AC-130 lên cao và bịt miệng “lũ pháo bầy” của địch lại cho chúng tôi được nhờ. Không thì vào xe nào nó lại xơi tái xe ấy.

Xe nào vào được các trận địa khi quay ra lại chở thương binh. Không khí căng thẳng, bi thương bao trùm. Nhưng thật kỳ lạ, cả tiểu đoàn xe chúng tôi không một người nào ngơi tay, chùn bước mà còn hăng hái hơn. Kể cả anh Quân, anh Hội (Hà Tây), anh Phúc (Thái Bình), anh Toại (Hải Hưng)… đang sốt rét, áp-xe mông sưng tấy, chân tay run rẩy vẫn bò lên buồng lái để đưa xe theo đội hình.

Một lần từ phía Tân Cảnh quay ra đến phía tây chân đèo Ang Bun, tôi thấy đầu óc lơ mơ, chỉ kịp dúi xe vào vệ đường, rồi không biết gì nữa. Tỉnh dậy thấy mình nằm trong một căn hầm của đơn vị công binh bên bờ suối. Ngồi cạnh tôi là anh Thiên Đại đội phó Đại đội 2 công binh. Anh nói là: Cõng tôi từ buồng lái về căn hầm này để cấp cứu. Tôi bị ngất do kiệt sức vì đã năm, sáu ngày liền không nuốt nổi miếng cơm, vì những cơn sốt rét. Thứ duy nhất duy trì “sức chiến đấu” là nước đậu xanh ninh với đường, đựng trong bi-đông tu dần, nhưng đã hết từ hôm trước. Anh Thiên cùng một người nữa thay nhau chăm sóc tôi. Những bát cháo cá suối nóng hổi làm tôi hồi phục nhanh chóng. Hơn hai ngày sau, tôi trở về đến đơn vị nhận lại xe rồi tiếp tục lên đường cùng tiểu đội. Gần 40 năm, trong ký ức của tôi vẫn in sâu đậm khuôn mặt hốc hác, đen sạm, môi thâm suộm, chỉ còn ánh mắt long lanh trìu mến dỗ dành tôi cố ăn hết bát cháo. Sau này tôi được biết, anh Thiên là người có những chiến công oanh liệt. Có lần anh đã dùng súng B41 hạ gục hai máy bay trực thăng chở quân địch đổ bộ, giải tỏa cung đường để chúng tôi được an toàn.

Gặp lại đồng đội thuở ấy

Hằng năm, Tiểu đoàn 58 Anh hùng của chúng tôi trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy vẫn gặp nhau ở Hội trường Đài Phát thanh-Truyền hình Hà Nội. Các thủ trưởng tiểu đoàn đã lên chức cụ cả rồi. Lứa “áp út” như chúng tôi đều đã lên chức ông bà nội, ngoại. Mỗi lần gặp nhau về là giấc ngủ lại sâu hơn, ăn ngon miệng hơn như cụ Lập, Tiểu đoàn trưởng của chúng tôi phát biểu. Cụ Định, Chính trị viên Tiểu đoàn mỗi lần gặp, nắm chặt tay tôi lặp lại không sai một từ khi gặp lần trước: Lứa các cậu thực sự là lính xế tinh nhuệ Trường Sơn. Nó đánh ác liệt như thế mà chẳng đứa nào chết”. “Còn cụ đánh nhau cả với Pháp ở Điện Biên Phủ, rồi đến hàng chục năm ở Trường Sơn mà giờ vẫn đẹp lão như thế!”-Tôi vội chen ngang kẻo các cụ lại chuyển sang chủ đề khác. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 58 phần nhiều học ở trường Tiến Bộ, sau này là Trường 255 (Trường Trung cấp kỹ thuật Xe-Máy) nên ai cũng hỏi han nhiều về trường hiện giờ. Các cụ tỏ ra lo lắng: “Không biết việc đào tạo, huấn luyện còn được như xưa không?”. Vì các cụ bảo: “Mấy đứa cháu của các cụ học ở trường lái xe bên ngoài dân sự có đứa không lái được, có đứa ngồi lên xe của nó mà toát cả mồ hôi vì sự liều lĩnh, cẩu thả của chúng nó. Còn nếu cho chúng nó lái xe đi đánh nhau như thuở chúng ta có lẽ nó bỏ xe mà chạy…”.

Kỹ năng và bản lĩnh đã giúp chúng tôi sống sót và hoàn thành mọi nhiệm vụ trong những năm tháng ác liệt của cuộc chiến tranh. Lứa chúng tôi thuộc thế hệ anh Thạc (liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, tác giả cuốn nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi”), lứa tuổi “tài hoa” (báo chí thường nói), học hành chu đáo lại được thế hệ cha anh tiếp lửa, được sống trong khí thế hào hùng của dân tộc: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

Đại tá, TS, NGND NGUYỄN VĂN MỖI

Vài kỷ niệm trên tuyến lửa Trường Sơn