 |
Đàn bò của bộ đội đảo Sinh Tồn. |
(Tiếp theo kỳ trước)
Thiếu tá Khương Công Vũ, Trạm trưởng Trạm ra-đa 11, quê Thanh Hóa, cũng có kinh nghiệm nhiều năm công tác trên quần đảo, anh cho biết: Anh em trong đơn vị đoàn kết gắn bó yêu thương, mỗi khi ai có chuyện buồn thì cả đơn vị cùng buồn, có việc gì vui, anh em cũng xúm vào chia vui. Anh Nhớ, khi được tin con gái 2 tuổi bị ốm, đơn vị trong bờ đưa đi bệnh viện, khi con khỏi bệnh anh em tổ chức liên hoan mừng cho anh. Trong đơn vị có binh nhất Kiều Xuân Huy quê Nha Trang, rất “công tử bột”, khi vào đơn vị, anh em phải chỉ bảo cho từng ly từng tí, từ sinh hoạt hằng ngày đến trồng rau, nấu cơm... Ra quân, Huy đã thực sự trưởng thành, về lại thành phố Nha Trang, thường xuyên gọi điện ra đảo hỏi thăm anh em trong đơn vị và hứa sẽ phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong cuộc sống mới.
Cấp cứu trên biển đêm
Tôi cũng được nghe nhiều chuyện cấp cứu trên biển. Nhưng đây là lần đầu tiên được chứng kiến. Trên đất liền có nhiều bệnh viện, nhiều cơ sở y tế, nhiều bác sĩ... thuận lợi trong cứu chữa bệnh nhân, khi có cấp cứu thì xe cứu thương được ưu tiên chạy nhanh, vì tính mạng của con người. Còn cấp cứu trên biển mới thấy đầy ắp sự vất vả, hiểm nguy, ranh giới giữa cái sống và cái chết thật mong manh. Càng thêm hiểu sự dũng cảm, hy sinh, tinh thần trách nhiệm “vì nhân dân quên mình” của thủy thủ đoàn, những chiến sĩ Hải quân trên con tàu HQ-996.
Chẳng là, đoàn công tác ra thăm Trường Sa có phóng viên Phùng Nguyên của báo Tiền phong. Đồng chí Nguyên bị đau bụng đã mấy ngày nay mà chưa thuyên giảm, mặc dù đã được các đồng chí quân y trên tàu tận tình chăm sóc và theo dõi chặt chẽ. Đến tối hôm sau thì đồng chí Nguyên đau nhiều hơn và sốt cao. Lúc đó đã quá nửa đêm, biển-trời đen kịt một màu đặc quánh. Tôi đứng ngay mạn tàu nhìn cũng không thể xác định được đâu là mặt biển, đâu là khoảng không bao la. Nghe tiếng loa trên tàu thông báo: “Tàu quay lại đảo cấp cứu bệnh nhân”, cả đoàn công tác vô cùng lo lắng, đổ xô ra mạn, hy vọng giúp gì được chăng? Bệnh nhân được đặt nằm gọn trong lòng chiếc xuồng trên boong, có anh Hải (phóng viên báo Đại đoàn kết) và anh Hùng (phóng viên Tạp chí Văn nghệ quân đội) ôm chặt Phùng Nguyên. Chiếc cần cẩu từ từ thả xuồng xuống mặt biển. Vì đêm đen, sóng to, chiếc xuồng cứ dập dình lên cao rồi lại xuống thấp theo con sóng, lắc qua lắc lại mãi mà vẫn chưa tiếp nối được với xuồng máy lai dắt. Bị sóng nhồi dữ dội nên bệnh nhân nôn thốc nôn tháo, càng làm mọi người không thể yên tâm. Khi chiếc xuồng rẽ sóng hướng vào hòn đảo gần nhất là Song Tử Tây, thành viên đoàn công tác mới tạm yên tâm phần nào. Song cũng không ai ngủ được, lo rằng nếu nhẹ nhất là ruột thừa như bác sĩ trên tàu chẩn đoán thì đồng chí Nguyên cũng phải ở lại đảo một thời gian dài, khi nào có tàu ra đảo, Nguyên mới vào được đất liền. Cả tàu không ngủ, mong ngóng tin tức từ đảo...
5 giờ sáng hôm sau, mạn tàu đã kín người đứng chờ đón chiếc xuống khi đêm, trở về tàu. Xuồng còn xa, chưa nhìn rõ mặt người, vả lại ngồi trên xuồng thì ai cũng phải mặc áo phao, nên phải cố căng mắt nhìn xem có đồng chí phóng viên Phùng Nguyên về theo xuồng không? Khi thấy khuôn mặt thân quen ngồi giữa hai đồng nghiệp và thủy thủ đoàn, mọi người mới thực sự thở phào nhẹ nhõm.
Đồng chí Nguyên mỉm cười, như mình có lỗi, làm thủy thủ đoàn vất vả đêm hôm. Nguyên cho chúng tôi biết: “Lên đảo lại không đau nữa. Tôi vô cùng cảm động khi xuồng mới gần đến đảo đã thấy hơn 20 cán bộ, chiến sĩ trên đảo chờ đón để cáng tôi chạy vào trạm y tế. Suốt đêm, cả bác sĩ trên đảo, cả bác sĩ đi theo xuồng và thủy thủ đoàn đều thức trắng bên tôi. Không ai ngủ, có lẽ vì quá lo lắng cho tôi. Tình đồng chí, đồng đội, tình yêu thương và trách nhiệm đến tận cùng của các chiến sĩ Hải quân làm tôi vô cùng khâm phục. Đó là một kỷ niệm đẹp mãi mãi không bao giờ tôi quên. Là phóng viên, tôi từng biết qua phương tiện thông tin đại chúng phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, nhưng được chứng kiến và may mắn là người được đón nhận tình cảm cao đẹp này, sẽ là một đề tài thú vị trong chuyến đi thực tế Trường Sa của tôi”.
Tôi tìm gặp Đại úy Ngô Đức Dũng, thuyền phó tàu HQ-996, người được giao nhiệm vụ điều khiển chiếc xuồng cấp cứu vào đảo. Dáng cao gầy, nụ cười hiền lành, Dũng nói: “Sóng này chưa ăn thua gì. Có nhiều tình huống sóng cao mấy mét, gió lốc, nguy hiểm gấp nhiều lần, chúng tôi được thường xuyên rèn luyện các phương án cấp cứu trên biển, nên mọi việc đều ổn cả. Tôi nhớ, đợt áp thấp nhiệt đới gần đây nhất, tàu HQ- 996 đang chạy gần đảo Sinh Tồn Đông, có điện gọi vào đảo Trường Sa Lớn chở một chiến sĩ cấp cứu vào đất liền. Cả con tàu chỉ chở một chiến sĩ, chạy hết tốc lực về Tân cảng, trên bờ đã thấy xe cấp cứu và bác sĩ đang chờ sẵn. Lúc đó mới thấy yên tâm”.
Nói về cấp cứu trên biển, Thiếu tá, bác sĩ Trịnh Quốc Khánh, trạm trưởng quân y đảo Trường Sa Đông, tâm sự: Bộ đội Hải quân sức khỏe tốt, ít khi ốm đau. Quân y trên đảo chỉ hay gặp những ca cấp cứu giúp ngư dân đánh cá trên biển Đông. Gần đây nhất có ca cấp cứu anh Lê Hồng Phương, nhân viên đèn hải đăng bên đảo Đá Tây, bị viêm ruột thừa cấp. Khi ấy, chúng tôi vừa ăn trưa xong, cáng anh Phương xuống xuồng để đưa lên tàu sang đảo Trường Sa Lớn. Đã sát tàu rồi mà sóng to xô đẩy chiếc xuồng như đánh võng, vòng đi vòng lại 3 lần mà vẫn không quăng được dây neo lên tàu. Gió bão mỗi lúc một mạnh hơn, giật đứt dây neo, đoạn còn lại cuốn vào chân vịt, làm chết máy. Xuồng bị đẩy trôi, bắn ra xa, trong khi tính mạng bệnh nhân tính bằng phút. May có tàu Trường Sa 22 ứng cứu kịp thời. Cả 8 cán bộ, chiến sĩ quân y và thủy thủ đoàn vật lộn với sóng gió, bão biển từ trưa đến hơn 9 giờ đêm mới đưa được bệnh nhân vào đảo. Tất cả chúng tôi cùng ở lại 5 ngày trên đảo với bệnh nhân, khi anh Phương bình phục, sức khỏe ổn định, chúng tôi lại hành trình đưa anh Phương về đảo Đá Tây làm ăn, sinh sống.
Dù cuộc sống trên biển, đảo còn nhiều khó khăn, gian khổ, khí hậu khắc nghiệt, điều kiện ngặt nghèo, cán bộ, chiến sĩ trên biển đảo vẫn làm tốt công tác dân vận, chia sẻ ngọt bùi với nhân dân sinh sống trên huyện đảo Trường Sa từ cọng rau, hạt gạo, con cá, miếng lương khô...
Nâng niu màu xanh trên đảo san hô
Nghe Trung tá Nguyễn Tiến Dũng, chỉ huy trưởng đảo Trường Sa Đông kể, những năm trước, trên đảo này chỉ có vài cây phi lao và 2 cây dừa ở trung tâm đảo. Vì không có mạch nước ngọt, kết cấu đất là đá san hô, mỗi lần có bão, sóng biển đánh từ mép đảo bên này trùm sang mép đảo bên kia, thế là không còn cây xanh nào sống được. Cán bộ, chiến sĩ chúng tôi phát động phong trào thi đua trồng cây “xanh hóa” đảo, với nhiều biện pháp đồng bộ, như đất màu đem từ đất liền ra, mỗi khi có tàu ra đảo, lại bổ sung thêm một ít đất màu; trồng cây ngập mặn phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu biển đảo; nhân và chiết giống cây của các đảo “hàng xóm”; chuyển những giống cây cha, sú vẹt, phong ba, bão táp... trồng trên đảo. Nói là trồng trên đảo nhưng không khác trồng trong chậu cây cảnh là mấy, vì đất màu phải quây lại bảo vệ, làm rọ che chắn, bao bọc, giữ gìn như báu vật, nếu không chỉ một cơn bão biển quét qua đảo là cả cây xanh và đất màu đều trôi ra biển hết. Nhưng từ khi có nhiều cây xanh, khí hậu môi trường mát mẻ, chúng tôi chăn nuôi được gà, ngan vịt, lợn, chó; có 4 tháng ít bão thì trồng rau xanh ăn thoải mái, dư dả. Riêng vườn dừa thì chúng tôi nhân giống từ hai cây dừa sẵn có trên đảo, cũng công phu lắm, chăm sóc như chăm rau xanh...
Trồng cây và rau xanh trên đảo nổi đã là kỳ công như làm một tác phẩm nghệ thuật, nhưng còn đỡ vất vả hơn nhiều ở đảo chìm. Tại các đảo nổi, ngoài việc trồng các loại rau phải đúng thời vụ, vườn rau trên đảo phải xây chắc chắn, kiên cố; xây thành từng ô nhỏ (khoảng 10m2 là rộng nhất, ô to khó che chắn được sóng gió, nước biển, bụi muối... táp vào làm hỏng rau), bao quanh xây tường chắn gió (cao 2 mét) hoặc dựng phên, liếp, tôn. Nhiều khi rau đang lên xanh mơn mởn, bỗng một con sóng ập vào, rau vàng úa hết. Đất màu trồng rau cũng phải bảo vệ, giữ gìn công phu, nếu để đất bị ngấm nước biển thì cũng không còn tác dụng “nuôi” rau xanh. Nhiều vườn rau trên đảo nổi phải xây nền bằng bê tông để giữ nước, trải lớp đất màu dày khoảng 10-15cm lên trên... Đền đáp bộ đội một nắng hai sương, mồ hôi thấm đất nên nhiều loại rau phát triển nhanh, như: muống, cải, mồng tơi, húng, mơ lông... Có nơi rau ở Trường Sa tốt ngỡ như gặp đất liền.
Còn ở các đảo chìm như Cô Lin, Đá Nam... thì hiếm đất để trồng rau xanh hơn các đảo nổi. Vườn rau chỉ như những chậu cây cảnh, đất màu cũng phải tiết kiệm, tận dụng, chắt chiu. Vườn rau phải gọn, nhỏ để khi sóng lớn, bão giông bộ đội dễ khênh “vườn” rau “sơ tán” vào nhà. Hình ảnh bộ đội trên biển, đảo ngủ cùng rau là thường gặp ở các đảo chìm. Trồng rau trong chậu cũng phải trồng rau theo mùa, trồng theo hướng gió, tưới rau cũng phải nhẹ tay, tưới khẽ để rau giữ được ẩm; thu hoạch, chăm sóc rau cũng phải tính toán chi ly, rau nào thu hoạch trước, rau nào ăn trước, rau nào để dành...
Thiếu úy Võ Văn Tiệp, nhân viên Trạm ra-đa 11 (Quân chủng Phòng không-Không quân) dẫn tôi ra xem vườn rau của đơn vị trên đảo Trường Sa Lớn. Anh say sưa giới thiệu với tôi giàn dưa leo và vườn rau khoai lang. Anh cho biết: “Từ hạt giống của đất liền gửi tặng, chúng tôi tự gieo trồng, tự thụ phấn nhân giống dưa leo. Chắc dưa leo mới chỉ có ở đây và quả dưa đầu tiên này được cả đơn vị nâng niu, ngày nào cũng ra ngắm nghía”. Nói rồi, Tiệp không ngần ngại ngắt luôn quả dưa leo đầu tiên đó tặng tôi. Tôi hiểu, quả dưa đó không chỉ là thành tích tăng gia của đảo, mà còn là một lời nhắn nhủ của các chiến sĩ Trường Sa: “Chúng tôi tất cả vì đất liền, vì Tổ quốc thiêng liêng”. Nhìn Tiệp, lòng tôi trào dâng xúc động. “Tất cả vì Trường Sa thân yêu” giờ đây với tôi đó không chỉ là khẩu hiệu (còn nữa)
Bài và ảnh: MAI PHƯƠNG