QĐND Online - Ông Pun Nhơn tiếp chúng tôi trong ngôi nhà ba gian lợp ngói, tường tô đá rửa đã cũ, nằm yên tĩnh ở một góc phố nhỏ của tỉnh lỵ tỉnh Sê Kông, Lào. Khi được hỏi vì sao ông lại trở thành người con của đất nước Triệu Voi, như chạm vào quá khứ đầy kiêu hãnh, đôi mắt ông sáng lên, giọng nói phảng phất chất lãng tử của thời trai trẻ kéo chúng tôi trở về hành trình cách đây gần 65 năm…

Ông là Lê Viết Muồn, sinh năm 1928, tại Quảng Nam. Năm 1948, sau cách mạng tháng Tám thành công, hòa chung khí thế hừng hực của cả nước lên đường tòng quân đi theo Đảng, Bác Hồ làm cách mạng, chàng thanh niên của phố cổ Hội An gia nhập vào Trung đoàn bảo vệ tỉnh Quảng Nam. Sau vài tháng học quân sự và chính trị, thấm nhuần tư tưởng yêu nước, ông cùng 9 đồng đội nữa của Trung đoàn do đồng chí Hoàng Tân làm đội trưởng được tổ chức phân công sang hoạt động giúp bạn Lào xây dựng lực lượng và cơ sở cho cách mạng tại các tỉnh Nam Lào.

Ông Pun Nhơn (áo đen) cùng vợ và những người bạn Việt Nam.

Chín anh em trong đội công tác hành quân bộ ròng rã cả tháng trời, vừa đi vừa mở lối, tìm đường, vượt qua biết bao hiểm nguy rình rập mới tới được nước bạn. Sau khi tới Lào, anh em chia tay nhau mỗi người đi mỗi tỉnh. Ông được phân công ở lại giúp tỉnh Sê Kông. Những tháng ngày đầu tới một nơi xa xôi, đơn độc, tiếng nói không biết, cảnh núi rừng âm u hoang dã, cuộc sống buồn tẻ của các bản làng với những tập tục lạc hậu, khí hậu khắc nghiệt, bệnh tật, sốt rét, đường sá xa xôi, địa bàn hoạt động trải rộng làm ông không khỏi chạnh lòng. Nhưng có một nguồn sức mạnh động viên ông, đó là niềm lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng do Đảng, Bác Hồ kính yêu lãnh đạo, sự yêu thương đùm bọc của nhân dân các dân tộc Lào đã làm cho ông có thêm nghị lực để vượt qua tất cả.

Ông còn nhớ lần đầu tiên xuống bản người Lào công tác nắm tình hình, gặp người dân, ông không biết bắt đầu từ đâu. Muốn cho họ hiểu, ông chỉ biết ra hiệu và chỉ vào vật dụng mình đang cần để bà con giúp đỡ. Rồi ông xin được ở nhờ trong nhà một người của bản, hằng ngày cùng họ làm việc, lên nương rẫy cuốc đất, làm cỏ, trồng lúa, bắp. Mỗi ngày học vài từ, sau đó, vừa làm, vừa học qua nhiều phương pháp, vốn tiếng Lào của ông ngày một nhiều lên, nửa năm sau ông đã nói tiếng Lào thành thạo. Nhưng nói được tiếng Lào chưa đủ mà phải biết đọc và biết viết chữ của người Lào thì mới hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền. Do đó, khi đã nói và hiểu đọc tiếng người Lào ông lại tìm người dạy chữ. Với sự sáng dạ và chịu khó, chỉ trong vòng vài tháng ông lại lấy thêm được một "chứng chỉ" tiếng Lào nữa - "Từ lúc đó mình đã trở thành người Lào thục thụ rồi", ông nói.

Trong quá trình tuyền truyền vận động xây dựng cơ sở, ông đã vào vai rất nhiều nghề; lúc là thầy giáo dạy học, kỹ sư nông nghiệp chỉ cho bà con làm ruộng lúa nước theo kiểu người dân Việt Nam để cho năng suất, hiệu quả cao; khi thì làm anh phụ trách đoàn thanh niên dạy múa hát cho các thanh thiếu niên. Nhiệm vụ nào quân đội giao, ông đều hoàn thành xuất sắc, góp phần xây dựng địa bàn các tỉnh Nam Lào, trong đó có tỉnh Sê Kông trở thành căn cứ cách mạng vững chắc của hai nước. Rồi ông được kết nạp vào Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Đất nước Lào được giải phóng, ông đã có nhiều sáng kiến cùng cấp ủy, chính quyền địa phương tỉnh Sê Kông lãnh đạo nhân dân các bộ tộc Lào ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn hóa, xã hội. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, ông trải qua nhiều cương vị khác nhau. Bằng trí tuệ của mình ông được Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào tín nhiệm giao trọng trách Ủy viên Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào; Bí thư- Tỉnh trưởng tỉnh Sê Kông các khóa III và IV. Ông nghỉ hưu năm 1990. Ông có một người vợ Lào thủy chung, trung hậu, đảm đang, thương chồng, thương con. Hiện giờ các con ông đều đã trưởng thành. Người con trai cả đang là Chánh văn phòng Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Sê Kông. Người con trai thứ hai đang công tác tại Bộ CHQS tỉnh Sê Kông…

Nhấp ngụm trà đặc quánh, ông cười giòn, nói giọng Quảng Nam còn đặc sệt: “Câu chuyện tôi trở thành người công dân Lào nó là như thế đấy!”. Tạm biệt ông, chúng tôi nhận ra rằng, tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt hiếm có giữa Việt Nam và Lào được bắt nguồn chính từ những con người như ông.

Bài, ảnh: TRUNG KIÊN