Lời mở đầu: Các tác giả luôn e ngại khi dùng ngôi thứ nhất trong bài viết của mình vì sợ bị chê trách là kiêu kỳ... Tôi liều làm cái điều tối kỵ là dùng đại từ nhân xưng “tôi” để kể lại những kỷ niệm trong đời làm báo của mình. Nếu có sơ suất mong bạn đọc lượng thứ.
Tôi là phóng viên mặt trận
Tôi về Báo Quân đội nhân dân tháng 12 năm 1953. Vừa chân ướt, chân ráo bước vào nghề, tôi chả có chút kinh nghiệm viết báo nào đã được cử ra mặt trận thay thế cho đồng chí Phú Bằng về hậu phương đi học đại học báo chí ở Bắc Kinh. Anh em đóng cho tôi cuốn sổ tay, cấp cho tôi tập giấy pơ-luya đen xỉn, dày, mặt giấy thô, nháp, có tờ còn dính một, hai mẩu nguyên liệu làm giấy nhỏ như đầu tăm. Hồi đó, không một phóng viên nào được trang bị bút bi. Một anh bạn từ nước ngoài đem về chiếc bút (kiểu đang bán với giá 1.000 đồng ở mọi nơi hiện nay) được chúng tôi chiêm ngưỡng với vẻ thán phục và tặng cho một cái tên rất kêu “Bút nguyên tử”. Tôi tự trang bị bút máy, thường được mệnh danh là Vancôđômư. Chả hiểu sao, bút không có ruột gà. Muốn viết được chúng tôi vặn cổ bút, khéo léo đổ mực vào. Anh em khuyên tôi không nên đem theo lọ mực mà dự trữ mấy cục phẩm tím nhỏ bằng nửa viên vitamin C trong chiếc ống sắt đựng thuốc nhỏ như ngón tay út, rất cẩn thận trong túi áo ngực. Tôi không có tiền mua đèn pin nên phải tự chuẩn bị đèn dầu hỏa. Có hàng chục kiểu “đèn” của các cán bộ, phóng viên ở Điện Biên Phủ. Bất cứ ai nhặt được hoặc xin được chiếc lọ to, nhỏ nào đều cải tạo thành chiếc đèn riêng cho mình, có nắp đậy như đồng xu, ở giữa lồng một ống muống xâu bấc. Để khỏi đổ dầu khi di chuyển, anh em cho bông vào trong lọ rồi mới rót dầu. Sau này, để tránh gió và không lộ ánh sáng khi có máy bay, chúng tôi tự chế tạo ra cái hộp bằng giấy, bằng sắt tây, bằng nứa hoặc bằng tre đan giống cái giỏ bắt cua. Tôi không khéo tay nên đành lấy ống luồng đẽo (vì không có cưa) vạc đi một mảng làm cửa cho đèn vào. Đề phòng bất trắc khi hết mực hoặc mất bút, tôi đem theo dự trữ một cái bút chì bằng gỗ mộc, nếu gọt không khéo chì rất dễ gãy và khi viết, dù cố ấn mạnh tay, nét chữ cũng không rõ.
Năm 1954, tôi ở tuổi 26, đã từng là chính trị viên đại đội bộ binh thuộc Đại đoàn 312, nên tôi thoáng ngỡ ngàng khi đặt chân tới Tòa soạn Báo Quân đội nhân dân ở mặt trận. Người phụ trách tờ báo tiếp tôi ở trong lán. Các phóng viên và anh em công nhân nhà in có thể đi lại tự do, nói cười thoải mái, khác xa với cảnh im lặng, hồi hộp khi đơn vị tôi bò vào đồn địch trước lúc bộc phá nổ để mở đột phá khẩu đánh vào tung thâm trong đồn địch.
Sau lần tiếp xúc đầu, đồng chí Hoàng Xuân Tùy bảo tôi cùng Phú Bằng, Khắc Tiếp: “Nhân tháng hữu nghị Việt-Trung-Xô, các cậu viết bài tùy bút về đề tài này”. Khốn khổ thân tôi, nào tôi có biết tùy bút, bút ký, phóng sự… như thế nào đâu! Hồi ở Đại đoàn 312, trong chỉnh quân chính trị, tôi có viết một bài-cứ coi như hồi ký-về những năm tháng tôi đi ở cho địa chủ trước Cách mạng Tháng Tám, đã được biểu dương. Có lẽ, do có bài hồi ký này, và do tôi ở thành phần cốt cán “cố nông”, nên tôi mới trở thành nhà báo bất đắc dĩ nhằm tăng cường chất lượng cho Báo Quân đội nhân dân, theo quan niệm thành phần chủ nghĩa hồi đó (!?).
Tôi nộp bài. Anh Hoàng Xuân Tùy không nói gì nhưng Khắc Tiếp cười bảo tôi: “Cậu viết cứ y như cảm tưởng xem phim “Cờ hồng trên núi Thúy”. Tôi sống ở nông thôn từ nhỏ, nên ngoài bộ phim Trung Quốc này, tôi có biết gì đâu để viết? Sau lần thử trình độ này, anh Tùy giao cho tôi cái đài để ghi những bản tin từ hậu phương gửi ra. Anh hỏi: Anh biết sử dụng đài chứ?
Tôi lắc đầu. Anh dặn tôi:
- Hôm nay, ngày mai, ngày kia, anh phải cặp kè cạnh anh Phú Bằng. Anh Bằng sẽ hướng dẫn anh từng làn sóng và giờ phát thanh tiếng Việt của các loại đài địch và Đài Tiếng nói Việt Nam. Anh có nhiệm vụ tổng hợp để viết thành bản tin chiến sự trong ngày.
Phú Bằng chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ, tỉ mỉ, hướng dẫn tôi bài học vỡ lòng về nghề báo. Cho đến nay, sau 56 năm gắn bó với nhau, tình bạn giữa các phóng viên mặt trận hồi đó rất mật thiết. Trừ các anh Chính Yên, Trần Cư, Thép Mới, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Thế Dũng đã mất, số còn lại như Hoàng Xuân Tùy, Khắc Tiếp, Phú Bằng, Nguyễn Bích, Tiến Lợi, Thái Duy (tức Trần Đình Vân)… luôn vui vẻ, hòa nhã, chưa hề to tiếng với nhau bao giờ.
Về cuối chiến dịch, tôi đã tạm quen với nghề làm báo, nên anh Tùy giao thêm việc đọc thư từ hậu phương gửi ra, chọn thư hay nhất hoặc biên tập nhiều thư lại thành một bài. Việc này tôi làm rất say sưa vì nhiều thư viết xúc động tới phát khóc lên.
Tôi bị chê viết chữ xấu
Giữa tháng 4-1954, Tổng biên tập Hoàng Xuân Tùy chỉ thị cho tôi đưa bài báo lên anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) duyệt. Mới được điều động từ Đại đoàn 312 về, tôi, có lẽ là người duy nhất ở Bộ Tổng tư lệnh tại Mặt trận Điện Biên Phủ không biết anh Văn là ai. Nhận ra người đứng trước mình là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi run quá, báo cáo lý do. Anh Giáp tươi cười:
- Đưa bài cho tớ!
- Báo cáo Anh, chữ tôi rất xấu. Tôi đọc để Anh nghe.
- Chữ xấu tôi cũng đọc được.
- Thưa Anh, tôi dập xóa lèm nhèm lắm.
- Cậu không biết tớ là giáo sư à?
Khi trả lại bài cho tôi, anh Văn nhận xét:
- Quả là viết quá xấu, bản thảo không sạch. Lần sau phải cố gắng viết đẹp hơn, sáng sủa hơn.
- Báo cáo Anh, trước Cách mạng Tháng Tám tôi đi ở cho địa chủ, tôi được học ít.
- Bây giờ cậu làm báo. Thế mới là lô gích.
Áng chừng mặt mũi tôi trợn tròn thế nào đó nên anh hỏi:
- Cậu có hiểu lô gích là gì không?
Tôi trả lời Đại tướng rất thành thật:
- Thưa Anh, tôi không biết tiếng Pháp ạ!
- Cậu có đem theo sổ tay không?
- Có ạ!
Anh Văn đã viết chữ lô gích to, chéo hai trang sổ tay dặn tôi về nhà hỏi anh em. Tôi không dám hỏi ai nhưng đến nay đã hiểu được và làm đúng lời dạy của anh Văn.
Tôi chỉ huy toàn bộ tù binh
Sau chiến thắng, đạo diễn Nguyễn Tiến Lợi xin một người chỉ huy toàn bộ tù binh Âu Phi để anh quay phim. Tôi “bị” chỉ định làm việc này. Tôi dễ dàng đi xin tiêu chuẩn ăn, lo chỗ ở cho tù binh hoặc đề nghị cấp súng chiến lợi phẩm cùng các phương tiện phục vụ quay phim, nhưng tôi rất bí khi giao dịch với Tây. Rất may, là có một tên Tây đen nhận làm thông ngôn và có anh Tiến Lợi truyền đạt mệnh lệnh cho tù binh. Cũng như các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Thái Duy, Chính Yên… không mặc quân phục vì không ở trong quân đội, anh Nguyễn Tiến Lợi đã hoàn thành bộ phim tài liệu về Điện Biên Phủ có sự đóng góp tích cực của chúng tôi.
Gặp xúi quẩy vì... gái
Khoảng giữa tháng 5-1954, tôi và Khắc Tiếp là hai phóng viên cuối cùng rời mặt trận. Thật buồn khi chúng tôi nhận lệnh phải cuốc bộ 40km trở lại Điện Biên để viết bài tường thuật về lễ trao trả nữ y tá duy nhất của Pháp có tên là Giơ-ne-vi Đơ Ga-la. Chả rõ vì sao cô đầm này đã viết đơn lên Bác Hồ xin ân xá và cô ta được toại nguyện. Cô ta khóc, nói những lời xúc động nhưng tôi vẫn ú ớ như vịt nghe sấm, chả viết được chữ nào. Trao trả xong cũng là hết thời gian ngừng bắn giữa ta và Pháp. Tôi và Khắc Tiếp bị dính hai trận bom và chúng tôi phải tự nấu cơm, tự phục vụ. Hai nhà báo QĐND gặp vận đen, bị xúi quẩy vì… gái.
Lá đơn của tôi
Tháng 12 năm 1956, tôi đã là phóng viên Báo QĐND được chẵn ba năm nhưng không có tin, bài nào được đăng báo. Tôi được cử xuống đại đội có thành tích huấn luyện giỏi nhất toàn quân cùng ăn, cùng ra bãi tập với chiến sĩ. Mười lăm ngày sau, tôi trở lại tòa soạn viết phóng sự điều tra. Tổng biên tập buộc tôi phải chữa đi, chữa lại 13 lần để cuối cùng bản thảo bị vứt vào sọt rác. Tôi đã rơm rớm nước mắt, khi đọc đơn trong cuộc họp chi bộ:
- Xin các đồng chí tha cho tôi. Tôi xin đi gánh gạch để phấn đấu nâng từ 30 viên lên 32, 34 viên/chuyến. Nửa năm, một năm rồi đã ba năm qua, tôi không có bài đăng báo. Tôi bưng bát cơm ăn mà nghẹn không sao nuốt nổi vì cảm thấy mình là người thừa của xã hội.
Ban Biên tập động viên tôi, chiếu cố đăng cho tôi một bài và đả thông là đã có hàng chục triệu độc giả đọc “tác phẩm” của tôi. Thấy không “thoát” nổi, tôi yên tâm, quyết tâm học nghề và đã thành công.
Tôi bị Bác Hồ phê bình
Tôi “nghiện” đi chiến trường. Vào tuyến đường Trường Sơn, tôi vớ được một gương tuyệt vời. Một đơn vị công binh bảo vệ trọng điểm đã chịu đựng hàng trăm trận oanh tạc ác liệt của địch, mỗi chiến sĩ tính ra đã hứng chịu bình quân vài ngàn ki-lô-gam bom và tên lửa của Mỹ. Một đoàn xe vận tải chở hàng chục tấn gạo, thịt hộp, cá hộp, mì chính, đường, sữa bị tắc đường. Lúc này, đơn vị công binh không còn một hạt gạo. Bí thư đảng ủy tiểu đoàn hô hào toàn đơn vị đào củ mài, củ sắn, đánh bắt cá, săn thú rừng để lo cầm cự, chờ tiếp tế.
Đường thông. Những chiếc xe vận tải đầy ắp hàng chạy ra tiền tuyến. Các chiến sĩ công binh tự hào vì đã "chí công vô tư", đã liêm khiết không tơ hào chút lương thực, thực phẩm nào của đồng đội ở chiến hào đánh Mỹ.
Từ lúc bài báo lên khuôn và liên tiếp ba ngày sau đó, tôi luôn được khen vì đã phát hiện được gương sáng tuyệt vời của đơn vị công binh. Sáng ngày thứ tư, Tổng biên tập gọi tôi lên thông báo: “Văn phòng Chủ tịch vừa truyền đạt cho tôi ý kiến Bác Hồ phê bình bài anh viết”. Tôi sửng sốt, bàng hoàng, hỏi lại:
- Bác chê tài liệu thiếu chính xác à? Tôi bảo đảm với anh là tôi chưa diễn tả hết sự thật.
Giọng Tổng Biên tập trầm hẳn xuống:
- Khi ký duyệt bài của anh, tôi đã không có tầm nhìn của Bác. Bác hỏi: Tiểu đoàn công binh đang ở hậu phương hay mặt trận? Tại sao chú chỉ huy cao nhất không hạ lệnh cấp đủ tiêu chuẩn, bảo đảm sức khỏe cho các chiến sĩ công binh?
Tôi im lặng và đã nhận được bài học vô giá qua nhận xét của Bác Hồ.
Tôi “gay gắt” với Tổng biên tập
Sáng mồng 4 tháng 5-1975, tôi về Hà Nội báo cáo với Tổng biên tập: “Tôi vớ được tài liệu độc đáo, quý, vô giá: Tôi hỏi cung Trần Văn Hương”.
- Anh viết ngay đi để ta sử dụng ngay ngày mai.
- Tôi viết rồi.
Sáng hôm sau không thấy bài của mình đăng báo, tôi sục lên phòng Tổng biên tập:
- Các anh cử phóng viên đi chiến trường làm gì? Bài tường thuật hỏi cung Dương Văn Minh của tôi, các anh ký tên Thành Tín. Anh kiểm tra xem anh Tín có viết một chữ nào không? Tôi gặp Trần Văn Hương ở nhà riêng ông ta, tả hình dáng, ghi lại từng lời nói của ông già này sinh động như thế nào mà cũng bị đá, thử hỏi tôi còn viết gì nữa?
Thấu hiểu tâm trạng bực bội của tôi, Tổng biên tập Nguyễn Đình Ước mời tôi ngồi, rót nước trao tận tay tôi, thổ lộ:
- Đảng ủy có kết luận về bài tường thuật mà chính anh đã đồng ý: Anh Tín không cướp công của anh. Anh Tín sửa bài của anh thành báo cáo gửi Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Bài anh nhận được sau khi anh Nguyễn Thắng đã biên tập lại báo cáo có ký tên anh Thành Tín. Từ nay, không anh nào được ký tên riêng. Các anh là đồng tác giả bài báo. Còn bài Trần Văn Hương, tôi cũng thắc mắc. Tôi sẽ cùng anh đi gặp anh Lê Quang Đạo (lúc đó là Trung tướng Phó chủ nhiệm TCCT).
Tôi quen vợ chồng anh Đạo từ năm 1953 nên anh trò chuyện cởi mở, suồng sã:
- Có ba lý do tôi quyết định không dùng bài của anh. Một là: Tụi nó nhục quá rồi, ta không cần hạ nhục chúng thêm nữa. Hai là: Bị sa cơ thất thế, Trần Văn Hương có nhận xét tốt về ta, ta không “cấp chứng minh thư” cho ông ta. Và ba là: Có dư luận ta vào Sài Gòn như vào chỗ không người.
Tôi cãi:
- Độc giả muốn biết số phận Trần Văn Hương ra sao? Thưa anh, thương vong của Quân đoàn 3 đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất cao hơn đánh vào Buôn Ma Thuột.
- Anh viết đi, càng nhiều càng tốt.
Tôi đành phải quay về vì hiểu lý do bài mình bị đá.
Đại tá NGUYỄN TRẦN THIẾT
(Còn nữa)