QĐND - Năm 2001, Hiệp hội RAOUL FOLLEREAU Pháp tài trợ 100% kinh phí xây dựng 30 công trình nhà ở, nhà điều trị và một số cơ sở hạ tầng khác để quy tập các bệnh nhân cùi (phong) về sinh sống tập trung. Từ đó, một ngôi làng mới được hình thành với cái tên được gọi từ căn bệnh hủy hoại ấy - Làng Cùi! (làng Đắk Dwe, xã Đắk Talei, huyện Mang Yang, tỉnh Gia lai). Gần 10 năm, đã hình thành quần thể văn hóa cộng đồng làng; một thế hệ mới đã được sinh ra và lớn lên... Thế nhưng, về làng cùi hôm nay, qua những gì tai thấy mắt nghe khiến tình người lắng lại, lòng yêu thương trong chúng ta dâng trào…
Những con số trên đầu ngón tay!
Tây nguyên đang bắt đầu vào mùa khô, con đường từ trụ sở UBND xã Đắk Talei vào làng nhiều ổ gà, ổ trâu ngập nước. Hơn 5km vạch cây rừng, lội nước chúng tôi mới đến được làng. Đường vào làng hoang vắng, không thấy bóng người qua lại.
Đi mãi rồi chúng tôi cũng may mắn gặp được một trung niên người Kinh đi làm về. Anh cho biết, anh đi thu hoạch bạch đàn thuê cho công ty nguyên liệu giấy. Trò chuyện trong chốc lát cuối cùng chúng tôi đã thực hiện những ý đồ trong cuộc gặp ngắn ngủi bên đường. Anh kể: "Bà con trong này nghèo lắm anh ơi, cả một ngôi làng mà không có nổi một hàng quán tạp hóa, giao thương nông sản không, làng lại nằm cuối con đường cụt dưới bìa rừng… thì người qua lại đây làm gì hả anh?!".
Lấm lem bởi những ổ gà đọng nước, cuối cùng chúng tôi cũng có cuộc trò chuyện với trưởng thôn Đinh Tẩm, người được coi là biết nhiều việc nhất về ngôi làng này. Qua câu chuyện anh kể, tôi được biết những khó khăn của làng.
Đắk Dwe không giống như những làng còn nghèo khó khác: Đó là vị trí địa lý khó khăn, tiềm năng sức lao động đã bị bệnh tật tàn phá, hủy diệt, dân trí thấp… Từ năm 2001, dự án của Hiệp hội RAOUL FOLLEREAU Pháp cắt băng khánh thành, bàn giao 30 ngôi nhà và những công trình công cộng… Và sau gần 10 năm, hiện chỉ có 23 gia đình vào ở, 7 ngôi nhà còn lại vẫn bỏ hoang! Làng có 23 hộ với 109 nhân khẩu, nhưng tư liệu sản xuất, phương tiện nghe nhìn phục vụ đời sống, nhiều thứ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Cả làng có 2 máy công nông, mỗi hộ được cấp 5 sào đất đồi trồng lúa cạn, 9 sào trồng mì và gần một sào đất ở trồng lác đác bời lời; phương tiện đi lại, nghe nhìn cũng chỉ khá hơn một chút, xe gắn máy gần 10 chiếc, ti vi 12 chiếc…
 |
Trẻ em ở làng Đắk Dwe. |
Chúng tôi băn khoăn về đời sống của bà con, anh Tẩm cho biết: Ở trên đồi cao này làng cũng chỉ có 3 loại cây trồng, không thêm, còn bớt thì còn tùy thuộc vào thời tiết, khí hậu. Lúa rẫy, mì, và một ít bời lời trồng tại vườn, trong diện tích gần một sào đất ở. Diện tích đất sản xuất xa nguồn nước nên năng suất cả lúa rẫy và mì đạt rất thấp, bà con thiếu ăn quanh năm. Cũng đã có những ý tưởng cải tạo nương rẫy, dẫn nước trên đỉnh núi về trồng lúa nước. Nhưng qua khảo sát, thẩm định, kết luận rằng không mang lại hiệu quả kinh tế vì diện tích nhỏ, nhưng phải đầu tư nguồn kinh phí thực hiện rất lớn…Gần 10 năm, bài toán giải quyết việc làm cho làng Đắk Dwe chắc đã được đặt ra nhưng chưa thực sự có một dự án làm đổi thay đời sống vật chất bà con!
Nước mắt làng
Làng Cùi, cái tên nghe có phần miệt thị ! Làng được lập lên từ nhu cầu bức thiết trước căn bệnh nguy hiểm, trên vùng đất Mang Yang, Gia Lai. Gần 10 năm, căn bệnh hủy diệt, tàn phế ấy y học đã dần dần khống chế được, đã có liệu pháp điều trị thành công. Hơn 2 năm nay làng không còn phát hiện bệnh nhân mới, chỉ có một bệnh nhân tái phát do không uống thuốc đều đặn. Bệnh nhân bị nặng, già yếu cũng đã ra đi nhiều, cả làng chỉ còn 11 bệnh nhân. 11 bệnh nhân ấy là gần 50% chủ hộ, những người chủ chốt lo miếng cơm manh áo cho gia đình mình!
Nghe có tiếng khách đến, bà Hoe, tôi đoán chừng ngoài 70 tuổi, nặng nhọc trên đôi cáng để đi ra cửa. Bà mắc bệnh từ nhỏ: Không chồng, không con, không khả năng lao động. Bà tiếp chúng tôi với nước mắt. Bà nói tiếng Ba-na, đại ý rằng: “Trời cho mình sống mà lấy mất tay, mất chân của mình đi, khổ quá”. Hằng ngày lết đôi nạng gỗ trên khu vườn nhỏ của mình, bà chờ đợi đám cây bời lời mỗi ngày, mà chẳng thấy nó lớn để bà đốn hạ đổi lấy thóc gạo, gói muối, gói bột ngọt… Vườn cây đó là nguồn thu ít ỏi và duy nhất của bà! Tuổi già, chân tay bị bệnh cưa cụt, co quắp, cầm bát cơm ăn cũng khó khăn, huống hồ việc nương rẫy, bà sống chủ yếu nhờ sự giúp đỡ của bà con lối xóm, thi thoảng có các nhà hảo tâm giúp đỡ vài cân gạo, gói mì tôm là điểm tựa trong việc tìm bữa... May mắn hơn, là hoàn cảnh của bà Siu, ở tuổi 60, dù chân tay co rúm, nhưng bà chưa phải ngồi xe lăn. Với đôi dép “chuyên dụng” bó cột chặt khớp bàn chân, bà còn đi lại được. Tuy không làm được việc trên nương rẫy nhưng bà vẫn còn trông coi được đàn cháu, cho các con đi làm…
Làng Đắk Dwe (xã Đắk Talei, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai) hiện còn 11 bệnh nhân cùi, mất khả năng lao động. Hiện đã có những dự án, những tấm lòng hảo tâm tài trợ xe lăn, chân giả, thuốc men… Còn cái ăn, nhu cầu sinh hoạt đời sống của bệnh nhân cùi đang rất cần những tấm lòng hảo tâm của các tổ chức, đoàn thể, cá nhân tiếp tục chia sẻ. Mọi sự giúp đỡ của bạn đọc xin gửi về Hội Chữ thập đỏ huyện Mang Yang. Địa chỉ: Thị trấn Kon Dỡng, Mang Yang, Gia Lai.
|
Chúng tôi đến thăm vợ chồng anh Đinh Wun, khi anh chị đang nổi lửa và đứa con 4 tuổi đang khóc vì đói. Nó lao đến chiếc nồi nhôm cũ móp méo, quẳng nắp ra thật xa, trong đó có mấy chú cua đồng ngo nguẩy... Anh Wun được xem là một trong những người may mắn ở làng: Hồi mới đến, chắt bóp từ bán đàn bò, anh đã mua được 2 sào ruộng nước ở làng bên. 2 sào ruộng nước là niềm hy vọng của đôi vợ chồng, cậu con trai 4 tuổi và mẹ già 70 tuổi. Và với 2 sào ruộng nước ấy, anh chị được xem là hộ khá giả của làng!
Trời đổ ráng chiều, nhiều bà con đã từ nương rẫy trở về. Đó là lúc bà con nhóm bếp lửa chuẩn bị nhận phần thưởng lớn nhất sau một ngày lao động cực nhọc. Trên bếp của bà Hoe, bà Siu vẫn nổi lửa, gió chiều đẩy những làn khói phảng phất từ nóc nhà bay lên ấm áp. Chúng tôi được chứng kiến trong chiếc nồi duy nhất của bà Hoe, lẫn những hạt gạo trắng hiếm hoi là màu xanh của lá mì xấp xấp nước. Bà nặng nhọc thêm chút muối, căn ke từng chút bột ngọt hiếm hoi… Bạn tôi ấn vào túi bà mấy tờ bạc ít ỏi từ đồng lương công chức đơn thuần, khiến bà rơi nước mắt.
Tạm biệt bà Hoe, tạm biệt anh Tẩm, chúng tôi ra về mà lòng trắc ẩn của tình người ngổn ngang, giằng xé. Giữa những cỏ cây um tùm, con đường phía sau hun hút, bên tai tôi như có tiếng làng, tiếng của những bệnh nhân cùi đang vọng gọi…
Bài và ảnh: Nguyễn Văn Hạnh