Nhà báo lão thành Lý Văn Sáu

QĐND - Tôi thường gọi ông Lý Văn Sáu - cán bộ tiền khởi nghĩa, nhà ngoại giao, nhà báo - là Chú Sáu. Bởi ông chỉ kém cha tôi sáu tuổi, luôn luôn dành cho tôi tình cảm ấm áp, lại là dân xứ Nghệ. Một lần tôi đến thăm, ông đọc cho tôi nghe khổ thơ: "Ngã Tư Vọng, ngã tư chờ/Anh chờ em mãi đến giờ năm năm/Năm năm Thanh Tước em nằm/Đêm đêm anh vẫn gọi thầm tên em" bày tỏ nỗi lòng của ông thương nhớ vợ - bà Ngô Thị Ngọc Ánh, cũng là một cán bộ tiền khởi nghĩa có quá trình hoạt động cách mạng sôi nổi, mất tháng 9-1998 (sau thời điểm mẹ tôi mất 3 tháng).

Nhìn ông mái tóc bạc trắng, lững thững tìm tài liệu lịch sử để đọc, tôi hình dung nhiều điều. Trước hết là những năm tháng hào hùng của ông trên cương vị Cố vấn và Người phát ngôn của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Pa-ri về Việt Nam.  Ông kể: "Trong cuộc họp báo quốc tế đầu tiên của Đoàn, một nhà báo Mỹ đưa ra tấm bản đồ và hỏi: "Các ngài khoe là đã giải phóng được 2/3 đất đai ở miền Nam Việt Nam. Vậy, hãy chỉ cho đâu là vùng giải phóng?". Biết đây là câu hỏi khiêu khích, ông điềm tĩnh trả lời: "Ông muốn biết đâu là vùng giải phóng của chúng tôi ư? Xin cứ đọc thông báo của Bộ chỉ huy quân đội Mỹ hôm nay. Những nơi nào máy bay Mỹ ném bom, thì đó chính là vùng giải phóng của chúng tôi". Ông cười, vỗ vai tôi nói thêm: Sau ngày miền Nam được giải phóng, một cán bộ Trung ương Cục gặp mình, nói trong niềm vui: "Hồi ấy tụi này đang nằm dưới hầm, bom Mỹ nổ rền trên đầu, qua đài BBC nghe cậu nói với các nhà báo như vậy, khoái quá". Tôi cũng mang tình cảm ấy, liền ôm lấy ông thốt lên: "Tài quá! Nhanh trí quá! Chú cứ như ông trạng ngày xưa đi sứ vậy…".

Sau ngày đất nước thống nhất, ông Lý Văn Sáu được Nhà nước bổ nhiệm Phó chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh và Truyền hình Việt Nam. Thế là, tôi trở thành lính phát thanh của ông. Rồi ông được phân phối nhà ở tại khu tập thể 128C Đại La, Ngã Tư Vọng, Hà Nội. Tôi có thêm may mắn được ở gần ông. Thấy tôi vượt khó học ngoại ngữ, ông khuyến khích, tạo điều kiện. Ông còn dẫn lời Bác Hồ: "Các nhà báo cần tinh thông ít nhất một ngoại ngữ để còn học cách làm báo của người ta". Trong những đợt ông ốm phải nằm điều trị tại bệnh viện, ông nghe đài suốt ngày. Chúng tôi vào thăm, ông nói về bệnh tình của mình thì ít mà nói về thời cuộc và nghiệp vụ báo chí thì nhiều.  Ông nhận định: "Khi giải quyết mâu thuẫn giữa các nước, điều cần thiết là phải coi trọng quyền dân tộc cơ bản của mỗi nước liên quan. Sau giai đoạn thù địch, chóng hay chầy đôi bên cũng sẽ trở thành đối tác làm ăn. Do vậy, người làm báo phải nhanh nhạy và hơn thế phải biết dự báo thời cuộc để nói cho trúng". Qua từng câu chuyện, tôi hiểu nhà ngoại giao kiêm nhà báo này yêu "Tiếng nói Việt Nam" lắm và rất giỏi vận dụng chủ trương, chính sách trong tuyên truyền.

Những điều ông Lý Văn Sáu nói và làm đều có cội nguồn. Năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Yên Thành, Nghệ An, rồi vào Nam tham gia kháng chiến ở Khánh Hòa. Đầu năm 1946, mặt trận Khánh Hòa vỡ, ông được điều lên chiến khu, chuyên việc theo dõi Đài TNVN để làm bản tin hằng ngày phục vụ quân và dân trong tỉnh. Ông lần trong trí nhớ và kể: "Một sáng mùa thu 1946, dò được làn sóng Đài TNVN, khi Quốc ca nổi lên, mình sung sướng đứng phắt dậy làm động tác chào cờ. Không may, đầu đụng vào mỏm đá trong hang núi Hòn Dữ - nơi đặt máy thu thanh và máy nổ, máu thấm ướt tóc. Cũng tại đây, mình còn được đồng đội đặt cho bí danh "Đại Tây" (tức là đậy tai), vì suốt ngày mang cặp écouter để nghe đài".

Qua quá trình miệt mài công tác, gắn bó với đồng nghiệp, dân chúng, say sưa học tập, tu dưỡng, nghiên cứu… ông trưởng thành không ngừng, bản lĩnh chính trị vững vàng, vốn hiểu biết sâu rộng, trình độ ngoại ngữ tốt, sống liêm khiết và khiêm nhường, lại có nhiều bạn bè quốc tế gắn bó với Việt Nam… Cũng chính từ vốn quý ấy mà trong những năm làm công tác báo chí khá bận rộn ở Ủy ban Phát thanh và Truyền hình Việt Nam, rồi cả vị trí Phó tổng biên tập Thông tấn xã Việt Nam về sau, ông vẫn được Nhà nước nhiều lần điều động đi làm công tác ngoại giao và tham dự các diễn đàn quốc tế. Lần nào ông cũng được đánh giá là hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Hai chục năm qua, ông Lý Văn Sáu nghỉ hưu, vui với đàn cháu và viết hồi ký. Tôi noi gương ông, cũng đọc và viết. Có gì bí, tôi chạy sang nhà ông là được giải đáp, như mượn những cuốn sách quý và cần, giải nghĩa những từ Hán-Việt khó và tra cứu một số điển tích đông - tây. "Ôi, sung sướng và thú vị biết bao mỗi khi cháu được chú chỉ bảo" - Tôi đã nhiều lần thốt lên với chú như thế. 

Nhưng bây giờ thì không còn được tiếp diễn cảnh ấy nữa rồi. Ông Lý Văn Sáu, cán bộ tiền khởi nghĩa, nhà ngoại giao, nhà báo, thủ trưởng một thời của tôi và là người Chú kính yêu của tôi đã về cõi trời để gặp cụ bà Ngô Thị Ngọc Ánh và bạn hữu đã quá cố, đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 37 Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-2012). Thương nhớ Chú, tôi viết bài báo này, bày tỏ tấm lòng thành của mình trước vong linh Chú.

Dương Quang Minh