 |
|
Từ phải sang trái: Vợ chồng Thiếu tướng Trần Tiến Cung, Đại tá Dương Tuấn Kiệt, Đại tá Đặng Văn Bổ. Ảnh: H.S |
Kỳ 1: Điểm tựa của những người thầm lặng
Kỳ 2: Đất hiểm
Kỳ 3: Cài người
Kỳ 4: Đột nhập
Kỳ 5: Đội tàu 128 và “Những người tôi thương nhớ”
Đến thời điểm đầu năm 1960, liên lạc giữa Cụm tình báo miền Trung với Trung ương chủ yếu bằng điện đài. Còn việc đưa cán bộ tình báo, giao liên vào hoặc chuyển tài liệu mật ra Hà Nội thường đi bằng đường Trường Sơn với thời gian rất dài.
Cục Nghiên cứu và Cụm Tình báo miền Trung nghĩ đến một phương án liên lạc ra Bắc mới, tuy có phần mạo hiểm, nhưng nhanh chóng hơn nhằm lợi dụng triệt để địa thế của Đà Nẵng cũng như của cả dãy khu vực miền Trung dài dằng dặc này.
Đó là đường biển.
Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”, đánh phá ác liệt và kiểm soát gắt gao vùng giới tuyến. Công tác giao thông của ta gặp vô cùng khó khăn.
Hồi đó, có những cán bộ cách mạng ở lại hoạt động bí mật. Sau đó bị lộ, nhiều đồng chí đã vượt biển ra Bắc bằng thuyền nan. Chỉ cần ra hải phận quốc tế rồi qua vĩ tuyến 17 xem như là thành công.
Khoảng tháng 10-1956, ta đã có một tổ thuyền. Với những chiếc thuyền nan, các chiến sĩ giao liên đã dũng cảm vượt qua giới tuyến trước họng súng quân thù. Từ một tổ thuyền ban đầu đó, sau năm 1960 được Cục Nghiên cứu phát triển thành đội tàu mang phiên hiệu 128.
Khác với Đoàn tàu Không số, mỗi con tàu của 128 đều có số đăng ký của chính quyền Sài Gòn để từ miền Bắc xâm nhập vào các cảng bọn địch không hay biết. Nhiệm vụ của các con tàu này là chở cán bộ, tài liệu mật, không chở vũ khí như đoàn tàu Không số.
Muốn cho đội 128 hoạt động hiệu quả và an toàn phải có hai điều kiện: Tàu và người.
Tàu phải đóng tại các cơ sở của mình ở miền Nam để được bọn địch cấp giấy phép. Người thì phải là người ở địa phương, giỏi nghề đi biển.
Bộ phận Tuyển chọn đã tuyển một số cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc từng làm nghề đánh cá trên biển về đội tàu 128. Tất cả giấy phép của các “ngư phủ” 128 đều do cơ sở của ta làm, hoặc xin mẫu đưa ra miền Bắc làm giả.
Những chiến sĩ của 128 đều là những thủy thủ lành nghề như những ngư phủ miền Trung. Các tàu đánh cá miền Nam hồi đó đi biển không có la bàn, nên bắt buộc đội tàu 128 cũng vậy, nếu không bọn cảnh sát trên biển sẽ nghi ngờ. Các thuyền viên của 128 đã được huấn luyện giỏi đến mức, từ ngoài hải phận quốc tế, họ có thể vào chính xác bất cứ điểm nào ở vùng biển miền Trung.
Đội tàu 128 (sau này được phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân) đầu tiên do đồng chí Lê Hồng, người Thanh Khê, Đà Nẵng làm đội trưởng. Từ đó cho đến ngày đất nước thống nhất, đội giao thông tình báo trên biển đã thực hiện 263 chuyến liên lạc từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc an toàn.
Hoạt động trong sự kiểm soát gắt gao, nhiều lần bị địch vây bắt, có chuyến bị tàu địch kiểm tra 11 lần, nhưng bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, những giao thông viên tình báo trên biển đã bình tĩnh đưa cán bộ và tài liệu mật đến nơi đến chốn.
Đó là trường hợp của Thuyền trưởng Trần Tấn Mới (Sau này được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân).
Trên con đường biển từ Bắc vào Nam, khó khăn nhất của đội 128 là khi vượt qua vĩ tuyến 17. Đây là nơi địch tăng cường kiểm soát bằng các phương tiện đường biển hiện đại để chống ta xâm nhập. Chỉ cần vượt qua cửa tử đó xem như xong, bởi từ tàu thuyền đến ngư phủ của 128 đều có giấy tờ hợp lệ. Một hôm, khi “tàu đánh cá” của Trần Tấn Mới vừa vượt qua vĩ tuyến 17 thì bất ngờ, một tàu chiến của địch sáp vào bắt giữ. Tên trung úy ngụy chỉ vào mặt Trần Tấn Mới, nói:
- Tàu mày vượt biên ngoài Bắc vô!
Trần Tấn Mới thản nhiên:
- Thầy nói thiệt hay chơi đấy? Thầy đi biển còn có phương tiện liên lạc chứ tui chỉ có hai con mắt thôi nhưng không bao giờ đi sai đâu nghe.
- Thế mày có biết đây là đâu không?
- Đây là ngoài khơi Đà Nẵng chớ đâu! Nè, xin lỗi thầy, tui đi biển đã hơn 30 năm, biển này tui thuộc như lòng bàn tay, tui mà lạc thì làm sao về nhà được?
- Đ.M, tao canh chừng suốt ở vĩ tuyến 17 này, mày vượt biên mà còn cãi.
Trần Tấn Mới giả bộ ngơ ngác:
- Ủa, thì ra thầy canh chừng ở vĩ tuyến 17 à. Ờ, thế sao hôm nay mình đi lộn xộn thế hè!
Rồi anh dàn hòa:
- Thế thầy đi đâu?
Tên trung úy đáp:
- Tao về Đà Nẵng chứ đi đâu!
Trần Tấn Mới giả bộ mừng rỡ:
- Tui cũng về Đà Nẵng. Nhờ thầy kéo hộ tàu tui về bến, còn dầu tui sẽ san cho thầy.
Thấy vẻ mặt thật thà và giọng Duy Xuyên, Quảng Nam không lẫn vào đâu được của Trần Tấn Mới, lại ham mấy thùng dầu, tên trung úy chấp thuận. Hắn không ngờ, con tàu của hắn lại là vật che chắn để cán bộ tình báo của ta cập bến Bạch Đằng (Đà Nẵng) an toàn.
x
x x
Những câu chuyện tôi ghi chép được trên đây qua lời kể của Thiếu tướng Trần Tiến Cung chỉ phản ánh rất khiêm tốn chiến công của ông và đồng đội, vì bài viết chỉ đề cập một khoảng thời gian rất ngắn của cuộc chiến đấu gian khổ thầm lặng suốt 50 năm qua của Tình báo Liên khu 5 (còn gọi là Tình báo miền Trung- nay là Cục 11).
“Chiến dịch Mậu Thân 1968, Tình báo Liên khu 5 đã nắm chắc được Hội nghị Bộ Tổng tham mưu ngụy và kế hoạch quân sự Vùng 1 chiến thuật, nắm được kế hoạch quân sự và ý đồ tác chiến của địch trong chiến dịch đường 9-Nam Lào.
 |
|
Cán bộ, chiến sĩ Đội Tàu 128 anh hùng. Ảnh: Tư liệu TC2 |
Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Tình báo Liên khu 5 đã triển khai kế hoạch phục vụ, củng cố nâng cao hiệu quả các lưới điệp báo, điều chỉnh lực lượng vào các mục tiêu quan trọng ở Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Huế…
Trong suốt cuộc chiến đấu thầm lặng đó, hàng trăm cán bộ của đơn vị Anh hùng này đã hy sinh, bị địch bắt tra tấn tù đày tại nhà tù Côn Đảo và Chín Hầm ở Huế. Đã có 7 đơn vị và 12 cá nhân của Cục được tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân”. (Những chiến công thầm lặng-Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng xuất bản tháng 3 năm 2008, trang 46).
Thiếu tướng Trần Tiến Cung rất ít nói về mình, mà dành nhiều thời gian nói về đồng đội và các cơ sở cách mạng. Dạo này, sức khỏe của ông hơi yếu, đi lại rất khó khăn (ông bị gai đôi và vôi hóa khớp gối). Vợ ông, bà Nguyễn Thị Phán, nguyên Phó chủ tịch thành phố Đà Nẵng, người “hộ lý thân thiết” như ông thường gọi đùa, lại bị cao huyết áp phải nằm viện. Vì thế, mỗi ngày ông chỉ tiếp tôi được hai tiếng. Đã ngoài 80 tuổi, ông thường chỉ nhớ tên chứ không nhớ họ những đối tượng mà mình từng “đột nhập”. Ông kể, có đêm để chuẩn bị cung cấp tài liệu cho tôi, ông nằm nghĩ suốt đêm mới nhớ ra tên của Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1-Vùng 1 chiến thuật của chính quyền Sài Gòn.
Nhưng chiến công của đồng đội thì ông không bao giờ quên.
Ông bảo, mấy năm trước còn khỏe, hằng năm ông vẫn dành thời gian về lại Gò Nổi, chiến trường xưa của ông để thăm hỏi các gia đình chính sách và các cơ sở cách mạng cũ. Nơi đây, không chỉ có ông Xã Hoàng, bà Dương, ông Nhiều… mà còn có biết bao nhiêu người một lòng một dạ theo cách mạng cho dù địch khủng bố và đánh phá dữ dội. Ông nhớ gia đình ông Huỳnh Kim Vạn có 6 người tham gia cách mạng, trong đó có cô con gái Huỳnh Thị Thanh mới 13 tuổi. Thanh được tổ chức phân công liên lạc với chú ruột của mình là Huỳnh Phương Bá, tài vụ của Sư đoàn 1-Quân đoàn 1 ngụy một cơ sở của ta, để chuyển tin tức về quân số, tuyển quân, điều động hành quân của địch về căn cứ. Trong một lần như vậy, không may cô trúng bom của địch và anh dũng hy sinh.
Ông nhớ đến bà Hà, người Bình Định, cùng làm ở công ty Bách hóa Hà Nội với vợ ông. Bà là một người rất dũng cảm và kiên cường. Cục Nghiên cứu tuyển bà vào ngành tình báo và đưa vào Nha Trang để “lót ổ”. Sau này, bị địch phát hiện dùng giấy tờ giả nên bà bị bắt. Có lẽ, bà là một trong những người có hoàn cảnh éo le trong chiến tranh: Khi bà ra miền Bắc tập kết thì chồng bị địch bắt đày ra Côn Đảo. Khi bà bị địch bắt đày ra Côn Đảo thì ông đã được thả về và ra Bắc! Đó là một sự đổi ngôi. Mãi đến sau ngày 30-4-1975, hai ông bà mới được gặp nhau sau hơn 20 năm xa cách.
Ông nhớ đến Đại tá Lê Văn Trọng, người giờ đây được báo chí nhắc đến, nhớ kỹ sư cầu đường Bùi Bốn quê Quảng Ngãi to cao đẹp trai, chung thủy hết mực với vợ…
Bao nhiêu số phận, bao nhiêu cuộc đời tình báo âm thầm lặng lẽ mà ông chưa đề cập, hoặc chưa muốn kể ra.
Còn biết bao nhiêu chiến công của Tình báo miền Trung, kể cả sau năm 1975, chưa đến thời điểm để công khai.
Nhưng tất cả, ông nói với tôi, đó là “Những người tôi luôn thương nhớ”.
HỒNG SƠN