QĐND Online - Tây Nguyên có vị trí chiến lược về quốc phòng-an ninh của cả nước, cũng là địa bàn khí hậu khắc nghiệt, nhưng lòng người dân các dân tộc luôn thủy chung, son sắt. Tình đất, tình người Tây Nguyên đã níu giữ bước chân người lính Sư đoàn 470-Công ty Xây dựng 470 (Binh đoàn 12-Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn) suốt 40 năm qua. Và trong bốn thập kỷ đã qua, thế hệ người lính Sư đoàn 470 kế tiếp nhau, lập lên nhiều chiến công hiển hách.
 |
Công ty xây dựng 470 hỗ trợ gạo cho bà con nghèo ở tỉnh Đắc Lắc
|
Chiến đấu và hàn gắn vết thương chiến tranh
Chấp hành Chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Nghị quyết của Đảng ủy Bộ tư lệnh 559, ngày 15 tháng 4 năm 1970 Sư đoàn 470 được thành lập tại khu rừng Nậm Pa, thuộc tỉnh Atô-pơ (Nam Lào). Là đơn vị cấp sư đoàn đầu tiên thuộc Bộ tư lệnh 559, Sư đoàn 470 gồm nhiều lực lượng, binh chủng hợp thành có nhiệm vụ trực tiếp đánh địch, mở đường bảo đảm tuyến giao thông chiến lược, vận chuyển vũ khí, chi viện sức người, sức của cho chiến truờng B2, B3, và giúp cách mạng các nước bạn Lào, Cam-pu-chia xây dựng lực lượng đồng thời là cơ quan Tiền phương của Bộ tư lệnh 559. Tác chiến ở tuyến cuối cùng trên đường mòn Hồ Chí Minh, xa hậu phương lớn, địa bàn hoạt động trải rộng, địa hình hiểm trở, thời tiết vô cùng khắc nghiệt, đời sống bộ đội thiếu thốn, lại phải đương đầu với nhiều kiểu chiến tranh phá hoại của địch, với nhiều thủ đoạn nham hiểm cả trên mặt đất, trên không, với đủ loại bom đạn và chất độc phá hoại, nhưng với “chí sắt, gan vàng” cán bộ chiến sỹ Sư đoàn 470 đã phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, chủ động hiệp đồng, liên tục tiến công, liên tiếp giành thắng lợi. Vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, có thời điểm quân số sư đoàn lên tới hơn 12.000 cán bộ, chiến sỹ biên chế thành nhiều binh trạm, trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc rải dọc từ Tây Trường Sơn sang Đông Trường Sơn. Tròn 5 năm chiến đấu và phục vụ chiến đấu (từ tháng 4-1970 đến tháng 4-1975), lực lượng bộ đội công binh, bộ đội vận tải, bộ đội giao liên và lực lượng trực tiếp chiến đấu của sư đoàn đã lập nhiều chiến công hiển hách ngay trên những địa bàn trọng điểm, nơi địch đánh phá ác liệt như đèo Bơ Phiên, đèo 32, đèo 200, dốc Trực, ngầm Sê Ca Mán, ngã ba Phi Hà, phà Sê San, phà 38, thác Măng Ca Muống…Sư đoàn đã mở mới 885 km đường bộ, mở rộng hơn 700 km đường sông, bảo đảm tuyến giao thông thông suốt với chiều dài 3.120 km đường ô tô nối liền 3 nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia, tạo thế trận cầu đường bộ, đường sông liên hoàn vững chắc, mở đường cho các cánh quân cơ động tiến công tiêu diệt địch trên các chiến trường B2 và B3. Trong vận tải đường sông và đường bộ, các chiến sỹ lái xe, lái ca nô với khẩu hiệu hành động “hàng không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả cho chiến trường đánh to thắng lớn”, bằng những phương thức vận chuyển phù hợp, linh hoạt kết hợp gùi thồ với cơ giới, vận chuyển cung ngắn với vận chuyển đường dài bằng những đoàn xe chạy thẳng giao hàng tới tận chiến trường đã dũng cảm vượt qua mưa bom bão đạn, tổ chức vận chuyển được 110 nghìn tấn hàng, hàng trăm đoàn binh khí kỹ thuật, kịp thời chi viện cho các chiến trường. Các chiến sỹ giao liên của sư đoàn với “đôi vai ngàn cân, đôi chân vạn dặm”, bằng trí thông minh và lòng quả cảm, kết hợp giữa giao liên cơ giới với giao liên bộ đã đưa đón hơn 190 nghìn lượt người vào ra chiến trường, hàng chục nghìn cán bộ dân chính đảng, thương bệnh binh ra miền Bắc điều trị và đón nhiều đoàn cán bộ cao cấp của nước bạn Cam-pu-chia bảo đảm an toàn tuyệt đối. Lực lượng trực tiếp chiến đấu của sư đoàn, với tinh thần “còn người, còn trận địa, còn đạn còn chiến đấu”, bộ đội cao xạ sư đoàn đã đánh hơn 300 trận, bắn rơi 88 máy bay Mỹ; lực lượng bộ binh đánh 94 trận tiêu diệt 740 tên địch, bắn rơi 1 máy bay; lực lượng đường ống xăng dầu vừa chiến đấu vừa xây dựng tuyến đường ống dài gần 1.000 km từ Nam Lào vượt qua nhiều sông sâu, núi cao vào tận Lộc Ninh (Bình Phước) và đã vận hành được hàng chục vạn tấn xăng dầu phục vụ chiến trường. Trong chiến dịch mùa xuân 1975, Sư đoàn 470 đã cơ động bám sát đội hình chiến đấu, bảo đảm giao thông trên 4 trục đường chính (quốc lộ 13, 14, 19 và 21) phục vụ kịp thời bước tiến của những cánh quân thần tốc. Đặc biệt, đêm 9 rạng sáng 10 tháng 3-1975, trung đoàn 575 đã bí mật mở 25 km đường rừng cho xe tăng ta tiếp cận tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột. Các trung đoàn 4, trung đoàn 574, trung đoàn 29B trực tiếp chiến đấu và tổ chức lực lượng tiếp quản thị xã Buôn Ma Thuột, Plâycu, Kon Tum, truy quét tàn quân địch, tháo gỡ bom mìn, bắc cầu, làm ngầm cho các quân đoàn tiến vào giải phóng Sài Gòn. Riêng trong Chiến dịch mùa xuân 1975, sư đoàn đã diệt và bắt sống 1.200 tên địch, quản lý giáo dục hơn 8.000 tù binh, thu nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Với thành tích suất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả với các nước bạn, Sư đoàn 470 và 6 tập thể, 2 cá nhân của sư đoàn được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Sư đoàn và Trung đoàn 4 công binh được tuyên dương ngày 3-6-1976; Đại đội 58 bộ binh được tuyên dương ngày 28-5-1970; Trạm 73 giao liên được tuyên dương ngày 1-10-1971; Tiểu đoàn 2 công binh được tuyên dương ngày 11-1-1973; Tiểu đoàn 58 ô tô được tuyên dương ngày 31-12-1973; Thượng sỹ Hồ Sỹ Tư, tiểu đội trưởng tiểu đội chuyển thương binh trạm giao liên 73 (Binh trạm 37) được tuyên dương ngày 11-10-1971 và Thiếu úy Hoàng Quang Tích, đại đội phó đại đội 2 công binh thuộc tiểu đoàn 47 (Trung đoàn 4 công binh) được tuyên dương ngày 31-12-1973.
Nhớ lại những tháng năm chiến đấu và phục vụ chiến đấu của Sư đoàn 470 anh hùng, tròn 35 năm trước, cựu chiến binh Lê Xuân Bá, khi ấy là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 công binh, kể: Chiến công xuất sắc của sư đoàn trong Chiến dịch Tây Nguyên chính là việc mở những con đường bí mật cho bộ đội ta tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột thắng lợi, mở màn chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Riêng Trung đoàn 4 công binh, trong chiến dịch Tây Nguyên đã trực tiếp làm cầu, phà, đường phục kịp thời cho các cánh quân tiến công giải phóng Đắc Lắc, Gia Lai. Sau chiến dịch Tây Nguyên, trong đội hình sư đoàn, trung đoàn 4 công binh nhanh chóng cơ động làm cầu phà, sửa các tuyến đường từ Đắc Lắc đi Đồng Soài và Thủ Dầu Một, xuống Quy Nhơn vào Phan Thiết, bảo đảm cho bộ đội chủ lực tiến công giải phóng Sài Gòn.
 |
Công ty Xây dựng 470, thi công đập chính thủy điện Sê-rê-pốk 3
|
Thiếu tướng Lương Sỹ Nhung, Tư lệnh Binh đoàn 12-Tổng giám đốc Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn nói về sự gắn bó của người lính Sư đoàn 470 với vùng đất Tây Nguyên hùng vỹ: “Sư đoàn 470, nay là Công ty Xây dựng 470 ra đời, chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên, đã hy sinh xương máu cho giải phóng Tây Nguyên. Và sau ngày đất nước thống nhất, phần lớn các đơn vị trong độ hình Bộ tư lệnh 559 cơ động đi nhận nhiệm vụ mới, thì Sư đoàn 470 tiếp tục bám trụ Tây Nguyên, cùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên hàn gắn vềt thương chiến tranh, truy quét Phun-rô, xây dựng vùng đất này phát triển như ngày hôm nay. Bộ đội Sư đoàn 470 tham gia xây dựng được nhiều công trình quan trọng phục vụ phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng. Sư đoàn đã mở mới và nâng cấp các tuyến đường giao thông trục dọc, trục ngang nối Tây Nguyên với miền Trung và Nam bộ; trực tiếp xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện, cảng hàng không và những công trình lớn của đất nước. Góp sức củng cố vị thế, uy tín bộ đội Trường Sơn, tạo được lòng tin yêu đối cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên đó chính là thành công lớn của Sư đoàn 470.”.
Đối với Tây Nguyên, sau ngày giải phóng là vùng đất xa xôi, hẻo lánh, rừng núi âm u, đại đa số nhân dân sống trong cảnh nghèo đói do chiến tranh phá hoại kéo dài, lại bị bọn hản động Phun-rô quấy phá, nên việc hàn gắn vết thương chiến tranh vô cùng gian nan, đòi hỏi ý chí “bền gan”, tinh thần dũng cảm của người lính Trường Sơn. Trụ lại Tây Nguyên, cũng đồng nghĩa với việc người lính Sư đoàn 470 một lần nữa phải hy sinh lợi ích riêng, kể cả phải hy sinh xương máu. Thực tế quá trình xây dựng các tuyến đường như quốc lộ 13, quốc lộ 14, quốc lộ 19,…, bộ đội vừa làm đường vừa phải truy quét Phun-rô và đã có những cán bộ, chiến sỹ Sư đoàn 470 hy sinh anh dũng. Từ sư đoàn công binh chiến lược chuyên làm đường quân sự, sau ngày giải phóng chuyển sang xây dựng cầu đường cơ bản và các công trình kinh tế quốc phòng với yêu cầu kỹ thuật cao theo phương thức hạch toán kinh tế thực sự là thử thách hết sức cam go đối với cán bộ chiến sỹ sư đoàn-những người lính vừa bước ra khỏi cuộc chiến đầy hy sinh gian khổ. Với ý chí cách mạng tiến công, phát huy truyền thống anh hùng trong chiến đấu, trên mặt trận lao động sản xuất thời bình, bộ đội Sư đoàn 470 đã nỗ lực vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật, biết tổ chức lực lượng lao động theo hướng “tập trung, chuyên sâu, dây chuyền, đồng bộ”, quan tâm bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, mạnh dạn đầu tư mua sắm trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn sau ngày Tổ quốc thống nhất, Sư đoàn 470 đã xây dựng được 486 km đường, gần 2,5 km cầu cống các loại bảo đảm giao thông thông suốt trên các tuyến quốc lộ 14, 19 và 21 tạo điều kiện cho Tây Nguyên thông thương với các tỉnh miền Trung và Nam bộ.
Tây Nguyên có diện tích tự nhiên 54.700 km2, dân số hơn 5 triệu người, vốn là vùng đất có nhiều tiềm năng và lợi thế trong phát triển kinh tế, nhất là nông-lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, khai khoáng. Trong khi đó mạng lưới giao thông những năm đầu mới giải phóng hết sức khó khăn, chỉ có những trục dọc chính và chưa được xây dựng cơ bản, chủ yếu là đường cấp phối nên việc lưu thông, vận chuyển hàng hoá vô cùng trở ngại, nhất là trong 6 tháng mùa mưa. Thực hiện nhiệm vụ kinh tế kết hợp với quốc phòng, từ năm 1975 đến 1990 Sư đoàn 470 đã tập trung lực lượng vào xây dựng và nâng cấp mạng lưới giao thông ở Tây Nguyên, đơn vị đã làm mới được hơn 1.000 km đường các loại, hàng chục cây cầu bê tông vĩnh cửu như cầu Ea Hleo, Hà Lan và cầu 38 trên quốc lộ 14 (Đắc Lắc), cầu Khe Hoa, cầu Đắk Bét, cầu Thác Nước trên tuyến đường Trường Sơn, nối liến huyện Đắc Glây với thành phố Kon Tum (Kon Tum). Cùng với xây dựng cầu đường và một số công trình thủy lợi, thủy điện, dân sinh và quốc phòng, trong những năm đầu đất nước giải phóng, bộ đội Sư đoàn 470 còn xung kích trong tăng gia sản xuất, giúp đồng bào địa phương định canh định cư. Nguyên sư đoàn trưởng Lê Xuân Bá, nhớ lại: “Những năm tháng của thập kỷ đầu sau giải phóng, kinh tế đất nước khó khăn vô cùng, cuộc sống bộ đội kham khổ, hàng ngày chỉ ăn cơm độn bo bo với cá khô mà vẫn phải đi công trường lao động cực nhọc. Để cải thiện một phần đời sống bộ đội, và hướng dẫn nhân dân địa phương lao động sản xuất, sư đoàn đã hình thành khu tăng gia, nuôi được đàn heo 400-500 con, hàng trăm con gia cầm và khai hoang trồng 51 ha cà phê. Khu vực trồng cà phê của sư đoàn sau này đã trở thành vùng sản xuất và buôn làng trù phú”.
Phát huy phẩm chất của anh bộ đội Cụ Hồ và truyền thống người lính Binh đoàn Trường Sơn, trong chiến đấu cũng như trong xây dựng đất nước, cán bộ, chiến sỹ Sư đoàn 470 luôn sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc lên trên lợi ích bản thân mình; trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu luôn làm chủ phương tiện, khí tài, chủ động tiến công địch và lập công xuất sắc; trong phát triển kinh tế thời bình biết làm chủ khoa học kỹ thuật, năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm đã xây dựng lên những công trình mang tầm thế kỷ.
Bài và ảnh: Kiều Bình Định