Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 502 miền Đông Nam bộ thể hiện quyết tâm trước giờ xung trận. Ảnh tư liệu

Cánh tay tôi đưa lên từ từ, ngón tay cò được tăng lực đều đều… Súng nổ 1 phát. Tôi đưa tiếp đường ngắm sang trái theo đúng yếu lĩnh bắn nhanh. Đó là cái đầu thằng sĩ quan Nam Triều Tiên. Thêm 1 phát. Hai thằng ngã gục. Những thằng khác nằm rạp xuống sân thượng bò càng. Tôi chỉ kịp thoáng thấy như vậy thì Tám Thảo đã đưa tay khép nhẹ cánh cửa sổ. Chỉ kéo một tí thôi, vì mấy bữa nay chúng tôi chỉ chừa có một tí đủ để nhìn sang trận địa. Tôi lượm 2 vỏ đạn cho vào túi áo và nói: Anh vào chỗ trốn và mang súng đạn theo. Em ráng thu xếp nhé.

Tám Thảo giục:

- Anh đi nhanh và cẩn thận nhé! Bị đau, thế nào chúng cũng lục soát cả vùng này.

Tôi cầm hai khẩu súng ngắn và gói đạn đi qua bàn thờ Phật Bà, qua giường ngủ của Tám Thảo, len qua những bành vải cùng vật dụng phế thải của gia đình bỏ ngổn ngang, chui qua một lỗ nhỏ bể trên tường gạch, bò vào nơi ẩn núp. Chỗ này vừa hẹp vừa tối om. Qua cái khe hình thành bởi trần nhà và đuôi mái nhà, tôi quan sát được toàn bộ con hẻm từ đường Gia Long đi vào. Ngoài kia, trời tối dần. Đường phố đã lên đèn. Đêm nay, tôi dự đoán chúng sẽ tăng cường bao vây khu vực, ngày mai mới là căng. Xe cứu thương, xe cảnh sát chạy rần rần, còi hụ lanh lảnh vang cả một vùng, nghe ghê rợn.

Tôi cười thầm, bụng nghĩ: thằng quan thầy chết hay bị thương nặng mới rình rang thế. Bề nào mình cũng đã chia lửa được với anh em, đồng chí. Đêm nay, chúc các đồng chí nhân sự lộn xộn về phía địch mà thoát vòng vây an toàn. Còn nhiệm vụ của mình là trụ lại đây kiên tâm bền bỉ.

Tiếng giày đinh nện vang trên mặt đường Gia Long. Một toán lính được bố trí ngay đầu hẻm. Tôi nghe chúng nói chuyện với nhau:

- Ông thiếu tá nói Việt cộng từ hướng này bắn đến, mày ạ.

- Từ hướng này?… Làm gì có chuyện đó?

- Thì ổng ra lệnh vây chặt và lục soát khu này mà!

Tôi tháo hai băng đạn ra lắp đầy đạn, còn lại một gói nhỏ để trước mặt. Tôi nhẩm tính: cô Ánh đem xuống 27 viên, dùng hết 2, còn 25 viên. Mỗi khẩu lên nòng sẵn 1 viên, lắp thêm 6 viên là 7. Như vậy phải còn 11 viên rời. Trong bóng tối, không còn làm gì hơn, tôi lần tay đếm từng viên như nhà sư lần chuỗi tràng hạt. Đúng. Còn 11 viên rời. Trường hợp khẩn cấp, ta bắn 23 viên, ít nhất cũng ngã 20 thằng giặc. Phải chừa riêng cho mình 2 viên, vì còn đề phòng có 1 viên lép. Nhất định không để cho chúng bắt sống. Từ cái kẹt trên trần nhà này, chúng kéo xác mình ra thì chỉ có mình với 2 khẩu súng và có thể còn trong nòng súng 1 viên đạn. Đó là viên dự bị. Tính kỹ như vậy, nhưng lúc lâm trận, có thể quên, do đó phải cẩn thận cho trước 2 viên vào túi áo sơ mi. Chà! Nếu đến tình huống đó thì thật tội cho ba, cho má, cho Tám Thảo, cho cả gia đình. Vậy mình phải bình tĩnh, hết sức bình tĩnh, thật sự đã lộ mới dùng đến súng đạn.

Đang ngồi thu mình trong bóng tối và suy tính, bỗng tôi nghe một tiếng động. Tôi định thần lại, tập trung tư tưởng lắng nghe. Tiếng động đúng trên đầu mình. Có người đi trên mái ngói… đi rất nhẹ… và không phải một… mà một toán người đang rón rén đi trên mái ngói. Như vậy thì chúng đã bủa lưới chặt chẽ, vây dưới đường và cả trên mái ngói.

Từ trong nhà vọng ra tiếng ba đang tụng kinh. Kinh Phật nghe cũng hay, ê a không phân biệt chữ gì là chữ gì, ghép lại không có nghĩa gì cả. Không có vần điệu gì cả, thế mà ông già thuộc lòng. Ba tu tại gia, thỉnh thoảng ngày rằm, ba mươi, hai ông bà dắt nhau đi chùa, công đức cho nhà chùa. Ba theo lễ giáo phong kiến của nhà nho, luôn giảng giải cho con cái trong nhà những điều công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức, ra sức xây dựng cho gia đình sống trong nền nếp. Ba rất ghét những “mốt” mới, ba cho là lai căng của Mỹ nhập vào. Có lần Tám Thảo chuẩn bị ra đường với tôi, cô mặc một chiếc áo dài mới may, không có cổ đứng lên như các chiếc áo khác. Ba gọi lại rầy liền và bảo phải thay ngay. Tính ba nghiêm khắc như vậy. Đối với tôi, thật ra tháng đầu ba có chú ý theo dõi, xem người cán bộ cách mạng là như thế nào, từ tư cách sống trong nhà đến nhận thức, tư tưởng. Sau khi đã hiểu rõ, ba rất mực thương tôi. Một buổi trưa, tôi đang ngồi trên gác một mình, tự học thêm tiếng Anh thì thấy ba lên, tay cầm cưa, cầm đục…

- Làm gì đó ba? Con phụ với!

- Ừ! Phụ với ba một tay. Định làm cho con một chỗ trốn thật kín khi lính xét nhà.

Thế rồi ba cưa, đục, làm cho tôi một chỗ trốn bí mật để chui vào tránh né khi lính xét nhà. Nhờ vậy mà những đêm bọn cảnh sát đập cửa vào xét tờ khai gia đình, trong lúc em Lan làm bộ rề rà đi tìm chìa khóa cửa thì tôi chạy lên ngồi im trong đó, ngay dưới bàn thờ Phật Bà. Ba đứng trước bàn thờ, tay trái xòe ra trước ngực, tay phải cầm dùi gõ mõ, đôi mắt lim dim, miệng cứ tụng kinh như không còn màng đến sự đời nữa. Tên lính nhìn tranh vẽ Phật Bà bên trên, nhìn ông tín đồ già sùng đạo bên dưới, tâm địa dù dữ cũng hóa hiền mà nhẹ bước trở xuống thang.

Tôi đã chiếm được cảm tình trọn vẹn của ba. Một đêm nằm chung trong mùng, ba tâm sự:

- Nói thiệt với con: Vốn ba hiện nay, ngoài nhà cửa và một số sạp vải ngoài chợ Bến Thành, tiền gửi Ngân hàng được 36 triệu. Ba biết rằng nếu giặc bắt con trong nhà thì ba trắng tay hết, gia đình tài sản không còn gì, con cháu không được đi học nữa, nhiều người phải vào tù…, nhưng ba thương con, ba thương cách mạng. Ba tin cách mạng sẽ thành công. Con cứ yên tâm ở đây mà làm việc cho cách mạng, có gì bất trắc ba chết, con mới chết.

Là một người theo lễ giáo phong kiến, chắc hẳn ba thuộc câu: “Nam nữ thọ thọ bất thân” nhưng một hôm, ba bảo tôi: Nhà có chiếc Hon-đa nữ đó, bữa nào con tập cho các em biết sử dụng để đỡ đần cho con trong công việc. Theo ý đó của ba, những buổi chiều đẹp trời, tôi lấy xe chở Tám Thảo ra xa lộ, rẽ vào con đường đá vắng vẻ đi Giồng Ông Tố. Ở đó ít xe qua lại, tôi tập cho Tám Thảo biết sử dụng Hon-đa.

… Đêm vắng, tiếng tụng kinh đều đều hòa trong tiếng gõ mõ, thỉnh thoảng điểm vào một tiếng chuông nghe thật não nuột. Dù sao, giọng trầm trầm của ba cũng làm cho thần kinh tôi đỡ căng thẳng. Tôi ngủ thiếp đi được một lúc. Một tiếng động nhỏ làm tôi bừng tỉnh dậy. Không còn nghe ba tụng kinh nữa. Không biết đã mấy giờ đêm. Sột soạt… sột soạt, rõ ràng có người đang len trong đống đồ phế thải của gia đình và lần đến đây. Tập trung lắm mới nghe được tiếng cạ rất êm vào các bành vải mà tôi cố ý xếp ngổn ngang để chắn lối. Ai? Tôi tự hỏi. Không có lý là giặc. Nếu giặc thì Tám Thảo báo động chớ! Vì muốn vào được cái gác xép này phải đi ngang giường ngủ của Tám Thảo. Nhưng mình đâu biết mọi sự diễn biến dưới nhà trong lúc mình ngủ quên. Đầu óc tôi căng ra. Tôi cầm lấy khẩu súng, xoay người lại, hướng về phía có tiếng động. Có tiếng gọi rất khẽ như hơi thở: “Anh Tư! Anh Tư!”. Tôi đang suy nghĩ thì tiếng gọi được lập lại, lần này nặng hơn một tí: “Anh Tư! Con…”. À, như vậy thì ông già đã mạo hiểm len vào tận đây. Có điều gì xảy ra? Tôi đặt khẩu súng một bên, lách người nhanh chóng bò ra. Tôi gọi khẽ: Ba! Tôi đưa tay quờ quạng. Ông già đang ngồi bên lỗ hổng của bức tường. Tay tôi đụng vào vai ba và sờ lần đến cánh tay. Tôi bóp một cách trìu mến như những đêm yên ổn tôi thoa dầu xoa bóp cho ba. Trong bóng tối, ba vuốt nhẹ lên đầu, lên vai tôi, rồi bàn tay ba lần xuống nắm lấy bàn tay tôi, nắm lấy ngón trỏ quay ngược đưa thẳng lên mái ngói rồi ngoặc qua chỉ trước đầu hẻm, áp miệng sát vào vai tôi: “Chúng đông lắm! Đừng xuống. Cứ ở đây. Yên tâm con ạ!…”. Rồi ba kéo tay tôi ra phía sau lưng của ba. Tôi mò lần để xác định xem là những món gì. Một cái bô. Một xấp giấy vệ sinh. Và gì nữa đây: một xấp bánh tráng, một phong bánh in, một chai nước lạnh, mấy trái hồng khô. Tôi giúi đầu vào bộ ngực to lớn của ba mà đầm đìa nước mắt. Ba đưa hai tay đẩy nhẹ tôi ra rồi lùi dần lùi dần… Tôi ngồi tại chỗ một lúc lâu, lòng vô cùng cảm động.

Đêm trôi qua tương đối im lặng. Tôi cũng ngủ được một lúc để lấy lại sức cho ngày mai. Hửng sáng, tỉnh dậy, tôi nghe tiếng súng lớn, súng nhỏ, tiếng la hét, chửi thề từ phía trận địa. Sau đó thì im, chỉ thỉnh thoảng một vài phát súng lục, vài loạt súng ngắn, tiểu liên AR15 rời rạc. Tôi dự đoán đơn vị bạn đã rút và bọn giặc đã vào kiểm soát được tòa nhà. Chỉ có đêm qua là thời cơ rút lui tốt nhất.

Theo “Sài Gòn Mậu Thân 1968” của tác giả NGUYỄN VĂN TÀU