Bộ đội Quân Giải phóng vượt tường đánh chiếm trung tâm huấn luyện Quang Trung của quân ngụy. Ảnh tư liệu

(Tiếp theo kỳ trước)

Bên trong vẫn im lặng.

Tuy nhiên, bọn đi đầu cũng cảnh giác, tiến rất chậm. Với mặt nạ chống hơi cay, hai tay nâng súng vừa đi, vừa bắn, trông chúng như một bầy ác qủy, hung thần. Chúng đã vượt qua bức tường rào xung quanh nhà. Vẫn chưa có một sự kháng cự nào từ bên trong. Đầu óc tôi bắt đầu căng thẳng. Anh chị em mình có sao rồi chăng? Tám Thảo không hỏi gì nữa, nhưng tôi biết cô cũng đang lo.

Kìa! Có thằng đã đến gần bậc tam cấp lên hành lang.

Ầm! Ầm! Tiếng lựu đạn hòa trong tiếng AK bắn phát một, tiếng súng ngắn K.54.

Mừng quá, tôi vỗ vai Tám Thảo:

- Đấy! Anh nói có sai đâu! Đồng chí chỉ huy vẫn còn. Em có nghe tiếng súng ngắn đấy không? Còn người chỉ huy là còn linh hồn của toàn đội.

Bọn giặc bắn trả hỗn loạn, ù té chạy trở ra, nhiều thằng bị thương bò lết, nhiều đứa nằm trên sân cát, lăn lộn rồi bất động, không ra được nữa. Chúng lại lo giải quyết số thương vong. Nhiều thằng bị thương đã nằm trên cáng còn đưa nắm đấm lên có ý phản đối bộ chỉ huy của chúng trên nhà mái bằng. Chiếc trực thăng tâm lý chiến lại rè rè bay đến. Lần này với một giọng nữ:

"Hỡi các cán binh Việt cộng. Các anh đang ở trong tình thế tuyệt vọng…".

Quay sang tôi, Tám Thảo nói:

- Đánh hay quá! Kiên cường quá! Nhưng liệu anh em mình chịu đựng đến bao giờ?

Tôi nói:

- Tiểu liên AK phải bắn từng phát một, chắc là đạn sắp hết. Bị địch bao vây giữa thành phố mà bám trụ, đánh trả hai ngày, hai đêm là giỏi quá rồi. Tình hình này chỉ đến tối nay là anh em rút thôi.

- Làm sao mà thoát được?

- Em đừng lo. Người chỉ huy giỏi trong tấn công bao giờ cũng đã có dự kiến tình huống rút lui.

Tôi đưa tay xem đồng hồ:

- Gần 9 giờ rồi. Hôm nay anh phải đi gặp giao thông. Hôm qua là ngày hẹn chính thức mà anh không đi được.

Tám Thảo lo lắng thật sự. Nhìn tôi, cô nói:

- Anh đi làm sao được? Xung quanh còn đánh nhau!

- Tiếng súng các nơi khác đã im rồi. Chỉ còn nơi đây, lại tập trung có một góc đó. Điểm hẹn là ngoài chợ chắc không sao đâu. Tình hình còn khắc phục được thì nên đi gặp, đừng để đồng chí mình phải chờ, có thể xảy ra nguy hiểm.

Tôi đứng dậy vuốt áo quần lại cho thẳng nếp, soi gương chải lại mái tóc, lấy đôi giày da màu nâu đánh vào một ít xi-ra cho bóng. Biết không cản được, Tám Thảo đứng nhìn tôi lo lắng. Cô nói:

- Anh đi thì đi, nhưng phải kỹ. Ra đường thấy không được thì quay lại. Lỡ có gì… nguy hiểm lắm. Anh là người chỉ huy của cụm.

- Cám ơn lời dặn dò của em. Còn có gì à? Thì cũng như các đồng chí đang phòng ngự trong tòa nhà kia thôi. Chúng mình, ai cũng vì nhiệm vụ mà.

Tôi xuống nhà, Tám Thảo đi theo. Ba hỏi:

- Sửa soạn đi đâu đấy con?

- Dạ, con có việc ra chợ một chút ba à.

- Ra chợ! Ông già thốt lên, vẻ mặt đầy lo lắng. Ngoài đường lính tráng rất nhiều. Có gì để ba đi cho? Ba già rồi, lính không làm khó đâu.

- Không được đâu ba, việc này phải con đi mới được.

Má ngồi trên sạp, vừa nhai trầu vừa nói:

- Hay là con để cho Mỹ Nhung đi thay con có được không? (Mỹ Nhung là tên khai sinh của cô Tám Thảo).

Tội nghiệp cho má. Cũng như ba, má rất thương tôi. Những lúc rảnh rỗi má cũng tâm sự, kể lại tôi nghe một thời niên thiếu khổ cực của một cô gái nông dân nghèo miền Bắc. Trèo cây, lội xuống ao vớt bèo nuôi lợn, cấy gặt, công việc đồng áng má làm giỏi. Sau khi cưới nhau, hai vợ chồng rời làng đi vào Nam tìm kế sinh nhai. Nhiều năm tần tảo, xây dựng được cơ ngơi vùng Bạc Liêu. Sau ngày 2-9-1945, Tây trở lại khủng bố những người có tham gia cách mạng. Vì có chân trong Mặt trận Việt Minh của địa phương, ba má phải bỏ hết nhà cửa sự nghiệp dìu dắt các con trốn lên Sài Gòn làm ăn. Dù đã có đồng ra đồng vào, của ăn của để, nhưng má thường nhắc đến cảnh đời nghèo khó, những lúc trốn Tây để giáo dục cho các con tình yêu lao động, yêu đất nước. Những ngày đầu mới đặt chân lên Sài Gòn, tôi chưa dám ra đường. Mỗi ngày má lụm cụm xách tô đi mua bưng vào nhà cho tôi một tô hủ tiếu, một cốc cà phê. Sau tôi từ chối nói không quen uống cà phê. Má lại mua cà phê bột đem về nhà và dặn tôi:

- Mỗi sáng, con pha cho má một ly, con một ly. Ba con phải kiêng vì bệnh.

Nhưng tôi biết má có ghiền cà phê đâu. Vì sợ tôi ngại ngùng không dám uống, nên mới làm như vậy. Tôi không bao giờ quên bà mẹ miền Bắc vô cùng phúc hậu, hết sức đảm đang, giàu lòng yêu nước, nặng nghĩa gia đình ấy. Thật đúng với câu ví:

Trai Cầu Vồng Yên Thế.

Gái Nội Duệ Cầu Lim.

Thấy tôi cứ đứng nhìn, má giục:

- Mỹ Nhung thay đồ đi hộ anh Tư đi con.

Tám Thảo đến ôm vai má, cười nũng nịu:

- Việc này không đi dùm được đâu má ơi! Công việc của ảnh mà.

Trước câu nói khó hiểu của con, bà má thở dài lặng lẽ cúi xuống mở lon thuốc xỉa lấy một ít vo tròn lại đưa vào miệng rồi chậm rãi đi xuống bếp.

Tôi mở cổng, theo ngõ hẻm ra đường. Ngoài đường hơi vắng, nhưng không phải không có người. Dân Sài Gòn mà! Nghe đánh lộn thì chen vào coi. Nghe hai bên đánh nhau, qua lúc đầu nguy hiểm rồi cũng tò mò đến coi như xi-nê vậy.

Tôi đứng lại ở đầu hẻm, rút ra điếu thuốc châm lửa hút và quan sát. Bên kia đường, một tên cảnh sát dã chiến đang lăm lăm khẩu tiểu liên AR15 và nhìn chằm chằm vào người qua lại.

- Thầy ở trong này à?

- Dạ… Mấy bữa nay bắn nhau nghe ghê quá, cứ rúc trong nhà, sợ muốn chết. Hôm nay đến ngày phải đi làm rồi mà cũng chưa dám đi, tình hình này không biết đến chừng nào mới êm?

Tên lính càu nhàu, giọng đầy bực bội:

- Có mấy thằng thôi… Bị ví chẹt trong cái nhà lầu đó… Rồi chúng cũng chết, không chịu nổi lâu đâu.

Tôi lấy gói thuốc thơm Pall Mall ra, rút đưa cho hắn một điếu và lấy hộp quẹt ga đánh lên một ngọn lửa xanh, hai tay bụm lại che gió và đưa gần miệng hắn. Hắn rít một hơi, nói lời cảm ơn rồi đổi giọng vui vẻ:

- Cái bọn dữ thiệt… Thủy quân lục chiến tụi này cũng đi đứt mấy chục mạng rồi đó. Không phải chỉ riêng tụi này bị đâu nhé, bên tụi biệt động quân nữa. Hợp lại đánh mấy lần rồi mà không nổi. Hồi nãy trên tổng tham mưu cho xuống thêm mấy sĩ quan. Nghe nói tổng thống đích thân ra lệnh trong ngày hôm nay phải diệt hết bọn chúng, nếu cần thì đánh bom hủy diệt luôn. Đánh sát dinh Độc Lập của ổng mấy ngày rồi! Cái bọn dữ thiệt đó!

- Ồ… Tôi cũng mong sao cho yên sớm để người dân như chúng tôi được nhờ… Cái tụi gì… ngày Tết cũng đánh!

Nghe tôi nói, tên lính càng ba hoa hơn:

- Thầy biết không, có một thằng Việt cộng đánh vào bộ tư lệnh Hải quân bị bắt sống. Hồi hôm đưa nó lên ti-vi để phỏng vấn trực tiếp. Tưởng bở, sĩ quan tâm lý chiến hỏi nó sao hai bên đã thỏa thuận với nhau ngưng bắn 3 ngày ăn Tết mà lại đánh vào các thành phố. Như thế là vi phạm… Thầy biết nó trả lời sao không? Đừng trông gì bọn nó nhận lỗi. Nó nói trong phép đánh giặc, ai lừa được đối phương để giành thắng lợi thì cứ lừa, làm thế nào để sớm đuổi được giặc Mỹ ra khỏi đất nước thì thôi. Làm đài truyền hình phải cắt ngang cuộc phỏng vấn. Sợ nó ứng khẩu nói bậy nữa, dân nghe cười chết…

Tên lính ngưng lại lấm lét ngó quanh, mắt hấp háy nhìn tôi khó hiểu, rồi đưa bàn tay lên che cái cười nửa miệng, nói tiếp:

- Thầy nghĩ sao? Theo tôi thì thằng đó nói phải. Đánh nhau mà, gạt được thì cứ gạt, ai cấm?

Tôi cũng cười với nó cho vui. Tôi nói:

- Chuyện nhà binh, đánh đấm của các ông. Thôi… để tôi thả lần ra chợ coi có ai bán gì không? Thiệt khổ! Có biết đánh nhau thế này đâu mà dự trữ đồ ăn!

Tôi băng qua đường, cập theo vỉa hè. Nó còn nói với theo:

- Cẩn thận nghen thầy! Súng còn bắn dữ lắm đó!

Tôi quay lại mỉm cười, gật đầu rồi rẽ phải theo đường Thủ Khoa Huân, lững thững đi ra cửa Bắc chợ Bến Thành. Trên đường, nhiều lính gác. Cửa chợ cũng có lính. Tên nào cũng lăm lăm trên tay, vẻ mặt hung dữ nhìn chầm chầm người dân thường. Ai biết chắc rằng những người đi bách bộ trông hiền lành kia không phải là Việt cộng? Chúng nói với nhau Việt cộng là vô hình, có tài xuất quỷ nhập thần!

Tôi liếc nhìn đồng hồ tay: 4 phút nữa đúng 9 giờ 30 phút. Tôi rảo bước về phía cửa Tây.

Từ đường Nguyễn An Ninh, một thiếu nữ đi ra, tay xách một chồng bánh tráng. Đúng cô Hai Ánh rồi! Cô đưa tay lên vành nón để sửa nón, nhưng tôi biết chỉ cần một giây đó thôi cũng đủ cho cô quan sát tìm đồng đội. Cô đã nhận ra tôi và ung dung đi thẳng vào trong chợ. Hôm nay mới ngày mùng 3, chợ cũng còn vắng. Hơn nữa, còn đánh nhau gần đây, ai cần lắm mới đi mua bán vào thời điểm này.

Tôi lách qua mấy người, tiến gần lên:

- Bánh tráng có bán không, cô ơi?

Hai Ánh nhìn lại, tươi cười:

- Dạ, bán chớ!

- Bao nhiêu xấp đó vậy cô?

- Dạ, một thiên bánh, lấy rẻ thầy 700 đồng.

- Chà! Nhiều tiền quá! Thôi, cũng được. Hôm nay hết trọi đồ ăn rồi.

(Còn nữa)

Theo “Sài Gòn Mậu Thân 1968” của tác giả NGUYỄN VĂN TÀU