Bộ đội ta tiến công tiêu diệt địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Ảnh tư liệu
(Tiếp theo kỳ trước)

- Khoan. Tao lấy thế sẵn sàng đã chớ… Rồi! Đẩy mạnh đi… Chạy nhanh chút nữa!

Tôi giậm cần số. Máy đã chịu nổ. Êm tai mát ruột làm sao! Tôi quay lại nói với:

- Thôi tao đi luôn. Tụi bây mạnh giỏi nhé!

Tôi còn nghe văng vẳng giọng nói của Thành:

- Đừng giận nghen anh Tư!

Xe lướt nhanh trên đường. Tôi nghĩ đến anh em, vừa bực tức, vừa thương. Đánh với thằng Mỹ hiện đại đến thế mà anh em mình không ai biết gì về máy móc, cả đến cái giản đơn như chiếc Honda này.

Ra đến Trảng Bàng thì trời vừa sụp tối. Tôi bật đèn pha lên rẽ trái theo Quốc lộ 1 hướng về Sài Gòn. Đèn đã vỡ kính, luồng ánh sáng cũng bị hạn chế một phần, hơn nữa máy móc cũng không được ổn lắm, nên tôi không dám chạy nhanh, cứ giữ tốc độ đều khoảng 40 cây số/giờ, thầm tính: trễ lắm thì 20 giờ mình về đến Sài Gòn, còn dư giờ để triển khai công việc.

Đồng trống, gió mát. Tôi đang phác họa những việc phải làm thì bỗng nhiên máy lại tắt. Tôi xuống xe, lòng vô cùng bối rối. Cố dướn mắt nhìn qua địa hình xung quanh, tôi phán đoán có lẽ mình còn trong địa phận xã An Tịnh, quận Trảng Bàng. Đây là một xã du kích. Tết mà không ai dám mở cửa đốt đèn đón xuân. Ngoài đường vắng tanh. Cố đạp máy một lúc mỏi cả chân, rồi gài số hai tay dắt chạy, máy vẫn ì ra không chịu nổ. Mệt mỏi, tôi dựng xe lên ngồi nghỉ bên lề đường, trong bụng nguyền rủa chiếc xe chết tiệt sao lại hư vào đúng lúc tình thế khẩn trương, dầu sôi lửa bỏng này. Không còn cách gì khác, tôi hạ cây tó chống xe lầm lũi dắt đi. Bằng mọi giá, đêm nay tôi phải vào Sài Gòn. Nhưng, nếu chỉ đi bộ kiểu này thì không thể nào kịp đến trong đêm. Còn những 50 cây số nữa. Cố gắng đi giỏi lắm và liên tục không nghỉ cũng phải mất 10 tiếng. Mà bây giờ đã 19 giờ rồi! Tôi hình dung các binh đoàn chủ lực của ta đang tiến về Sài Gòn trên những cánh đồng bên trái, bên phải kia. Đồng đội lội trên ruộng lầy, còn tôi trên đường tráng nhựa. Đồng đội tiến bước trong một đội hình tập thể, dẫu sao cũng vui, còn tôi dắt chiếc xe hỏng lầm lũi trong đêm, lẻ loi cô quạnh. Dầu sao, vẫn đi. Tôi xác định quyết tâm, rảo bước khỏi xã An Tịnh. Cái gì đen lù lù đằng trước, bên vệ đường kia? Tôi cứ đi tới. Chết rồi! Một cụm xe tăng bọn Mỹ. Tôi đã nghe chúng nói chuyện xầm xì với nhau. Hai thằng bước tới, mũi súng chĩa thẳng vào tôi. Một thằng hỏi, giọng giễu cợt:

- Vixi? (Việt cộng) phải không? Và nó bắt chước một giọng Việt lơ lớ:

- Đi đâu?

Tôi trả lời đùa nghịch không kém:

- Ô, nô, nô Vixi. (Ồ, không phải Việt cộng). Và tôi tiếp, vui vẻ hơn:

- Hello! Happy New Year (Xin chào, chúc mừng năm mới).

Thằng Mỹ lắp bắp một câu chúc Tết và đến gần hỏi tôi sao giờ này còn đi lang thang như vầy. Cũng bằng tiếng Mỹ, tôi nói với chúng là tôi đi chúc Tết người bà con trên Trảng Bàng, định về sớm nhưng xe hư đành phải dắt bộ. Vì thông cảm người “hiền” gặp nạn hay vì để thẩm tra, tên Mỹ đến rờ rẫm, rồi mở khóa công tắc, đạp máy. Chiếc xe vẫn câm lặng. Tôi lấy bao thuốc Lucky Strike ra hút và trao cho mỗi đứa một điếu, dò hỏi sao ngày Tết mà chúng không nghỉ. Chúng cho biết quân đội đã được lệnh báo động, vì đêm qua Việt cộng tấn công nhiều điểm ngoài miền Trung, ngay cả Thành phố Huế cũng bị đánh chiếm. Tôi từ giã chúng, tiếp tục dắt xe đi, bụng suy nghĩ: theo bọn này nói thì chiến trường ngoài miền Trung đã nổ súng tấn công. Tại sao ngoài đó lại đánh trước? Nếu đúng như vậy, thì tối nay anh em mình đánh vào Sài Gòn sẽ gay go.

Được thêm vài cây số, lòng đang buồn và lo thì bỗng nghe một toán người đi xe gắn máy từ phía Trảng Bàng xuống, ánh đèn pha loang loáng trên mặt đường. Tôi khoát tay, ra hiệu cầu cứu. Đoàn người dừng lại. Toàn là thanh niên trai trẻ, đùa nghịch vui vui. Một em hỏi tôi:

- Về đâu vậy chú?

- Về Sài Gòn.

Một em khác thốt lên, giọng đầy ngạc nhiên và thương xót:

- Trời ơi! Về Sài Gòn chừng này chú còn dắt xe ở đây thì chừng nào mới tới?

- Ờ, xe chú hư rồi. Có cách nào giúp chú đi?

Một em đưa ý kiến:

- Đẩy ổng tụi bây. Chắc xe bị ngộp xăng.

Như người bị chìm ghe vớ được cái phao, tôi ngồi lên yên mở khóa điện. Bọn trẻ dựng xe giữa đường hò nhau đẩy chạy. Tôi đạp cần số, máy vẫn không chịu nổ.

- Chắc bugi bị đóng chấu. Đứa nào có bugi dự phòng tặng ổng một cái đi tụi bây.

Một em pha đèn. Một em lục kiếm trong túi dụng cụ. Trong chốc lát, chiếc bugi xe tôi đã được thay xong, em đạp cần khởi động. Máy nổ giòn trước sự reo vui của mọi người. Em trao chiếc xe đang nổ máy cho tôi. Chưa kịp nói lời cảm ơn thì cả toán người trẻ tuổi ấy lại rồ máy xe phóng nhanh về phía Sài Gòn trong tiếng cười đùa vui vẻ. Một em nói với lại:

- Chịu khó đi sau nghen chú, tụi này đang có việc gấp lắm.

Tối quá, không thấy mặt ai cho rõ, nhưng tôi hình dung đó là những thanh niên hoạt bát, yêu đời, những em trong phong trào học sinh, sinh viên. Biết chừng đâu các em, cũng như tôi, lên chiến khu nhận lệnh tấn công, và đang chạy gấp rút về Sài Gòn cho kịp giờ nổ súng. Họ còn trẻ quá, tốt bụng, đáng yêu quá! Phí thật! Chiến tranh đang cuốn hút đi biết bao nhiêu là tuổi trẻ tài năng.

Tôi về đến Sài Gòn lúc 21 giờ 30 phút. Sau khi gặp đồng đội trao nhiệm vụ, tôi vẫn đủ thì giờ đi một vòng từ Bến Bạch Đằng lên đường Thống Nhất. Các mục tiêu chính trong trận tấn công đêm nay vẫn im lìm: Bộ tư lệnh Hải quân, Tòa đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập… Rẽ vào nhà số 135B đường Gia Long, ba má và các em mừng rỡ. Má lấy ra một đĩa thèo lèo, mứt bí, ba rót cho tách trà nóng và nói:

- Ăn mứt, uống nước đi con. Đêm qua cả nhà thức đón giao thừa lại vắng con, các em cứ nhắc…

- Dạ, các anh cho người đón con về rừng ăn Tết ba à.

Ông già trầm ngâm, giọng buồn buồn:

- Ước gì có một cái Tết mà được đoàn tụ cả nhà thì vui biết mấy.

Tôi biết ba đang nhớ đến những người con trai, con gái, người thì còn trong chiến khu Quân giải phóng, người thì tập kết ra miền Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954.

Bà má ngồi têm trầu bên ván, không nói gì, nhưng tôi nghe bà thở dài. Bà cũng đang buồn. Tôi an ủi:

- Thế nào rồi cũng đến một cái Tết như vậy. Ba má ráng sống mà coi. Không còn lâu đâu. Các anh, chị sẽ về với gia đình.

Như sực nhớ điều gì, ba ngẩng đầu lên, đôi mắt sáng rỡ:

- Này đêm qua lúc giao thừa, vặn đài Hà Nội đón thơ chúc Tết của Bác, ba nghe sướng quá. Nhứt là câu chót: Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta. Bác Hồ nói vậy xem chừng năm nay có chuyển biến lớn đó con.

- Dạ, Bác động viên mọi người tiến lên để giành toàn thắng đó ba. Thôi, ba má ngủ đi, ngày ấy không còn lâu lắm đâu…

… Và bây giờ thì ông già ngủ say bên cạnh tôi, tiếng ngáy đều đều.

Từ chiếc đồng hồ phát ra đoạn nhạc báo nửa giờ. Vậy là đã 2 giờ rưỡi rồi. Ông già cựa mình, quay sang, đặt tay lên vai tôi, tiếp tục ngủ. Đêm qua thức đón giao thừa, đêm nay ngủ say là phải. Đối với người dân bình thường là vậy, đối với bọn ngụy trong thành phố này là vậy, còn đối với chúng tôi, người chiến sĩ trong lực lượng võ trang thì đêm nay mới đúng là đêm giao thừa.

Ầm! Một tiếng nổ long trời cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. Tôi ngồi phắt dậy. Tiếp theo là những tiếng nổ, những tràng tiểu liên chát chúa. Đúng là tiếng tiểu liên AK của anh em mình. Gần lắm. Vậy là anh em đang tấn công vào cổng phụ Dinh Độc Lập. Ông già cũng ngồi dậy, ho mấy tiếng.

- Tổng tấn công rồi đó ba!

- Cái gì? Ai tấn công?

- Đằng mình đêm nay kéo quân vào đánh Sài Gòn. Súng nổ đều trời hết, ba có nghe đó không?

Mặc dù đã biết trước, tôi vẫn không kìm nổi sự xúc động. Hai tay ông già nắm lấy vai tôi lắc mạnh:

- Thật hả con? Đằng mình kéo quân về hả?

- Dạ. Kỳ này quyết đánh lấy luôn Sài Gòn đó ba.

Trong ánh lù mù của bóng đèn ngủ màu đỏ, tôi thấy đôi mắt ông già sáng long lanh:

- Vậy kỳ này bố chúng cũng chết. Cho mấy thằng “khỉ đột” Mỹ hết làm phách!

Bà má nằm ngủ trên đi-văng bên kia bàn nước cũng đã thức giấc, hỏi sang:

- Súng nổ dữ vậy ông?

Ông già bước đến một bên, bụm tay nói nhỏ vào tai ra điều quan trọng lắm:

- Đằng mình về. Bà biết không? Đằng mình về đông lắm. Bà có nghe súng nổ như ngô rang đó không? Tôi biết mà. Sớm muộn gì chúng cũng phải chết và các con mình sẽ về…

Giọng ông già run run. Động tác ông luýnh quýnh. Ông mở cửa thông xuống nhà dưới rồi chần chừ… ông đóng cửa lại, trở về rót nước ra hai cái tách, đưa cho tôi một tách.

- Uống đi con! Uống đi! Súng nổ nghe đã thiệt đó!

Nước trà để trong bình ủ nên còn âm ấm, uống vào tỉnh cả người.

Tôi nhìn lên. Bóng cô Tám Thảo từ phòng ngủ trên gác đã xuống đứng giữa cầu thang từ bao giờ.

Tôi gọi:

- Kìa! Xuống đi em! Xuống trải chiếu trên nền gạch mà ngủ tiếp. Trên đó súng đạn nguy hiểm lắm… Nhà mình lại rất gần mặt trận.

Tám Thảo chưa chịu xuống mà còn nói:

- Trên này nhìn qua cửa sổ thấy đạn lửa đan nhau đẹp lắm. Anh lên mà xem.

Ông già có vẻ bực:

- Con đùa với súng đạn đấy hả? Có xuống hay không thì bảo.

(Còn nữa)

Theo “Sài Gòn Mậu Thân 1968” của tác giả NGUYỄN VĂN TÀU