Ông Phạm Phú Thanh (bên phải) hướng dẫn du khách tại Bảo tàng ở Cù lao Chàm

Sắc xanh Cù lao Chàm
“Đừng gọi họ là chúng nó”

Trong hành trình tới Cù lao Chàm, một người bạn nói vui: “Về cuộc đời của ông Thanh, các bạn đã có hẳn một bài báo rồi”. Người bạn của tôi đã đúng. Ông Thanh đưa chúng tôi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác: Câu chuyện về cuộc đời ông, những chia sẻ của một người hướng dẫn viên du lịch, suy nghĩ về một vùng đất… Đến khi chúng tôi rời Cù lao Chàm, ông Thanh phải ở lại để tiếp tục đón một đoàn khách mới, vẫn còn một lời hẹn được ăn bữa cơm cùng gia đình ông. Nhưng có lẽ vì ông quá bận mà lỗi hẹn thì chúng tôi lại càng quý hơn và nhớ lâu hơn về hình ảnh của ông, những lời ông tâm sự khi còn trên Cù lao Chàm.

Hai vợ chồng ông Thanh vốn là giáo viên dạy văn trường huyện. Tưởng cuộc đời của hai vợ chồng là giáo viên cứ trôi đi bình lặng nhưng chuyện bắt đầu từ khi đứa con gái đầu của ông đỗ Học viện Bưu chính-Viễn thông. Sự kiện ấy đã nổi như cồn ở nơi vùng quê hẻo lánh. Ông Thanh quyết định mở tiệc mừng mời khắp bạn bè, họ hàng. Tiệc đã tàn, chỉ còn “ta với ta”. Lúc ấy, hai vợ chồng ông cùng băn khoăn một câu hỏi: “Lấy tiền đâu để cho con đi học đại học?”. Cực chẳng đã, ông bèn bày trò. Con gái làm “trọng tài” cho hai vợ chồng ông chơi trò “oẳn tù tì”. Ai thua sẽ là người về “một cục” để lấy tiền cho con đi học tiếp. Ông cố tình chờ bà ra kéo, rồi mới nhanh tay ra xòe để nhận phần thua về mình.

Ông bồi hồi nhớ lại chuyện cũ bằng một giọng chậm rãi, đặc chất Quảng Nam: “Hai vợ chồng làm giáo viên mà con không đỗ đại học thì nhục lắm. Khi tôi bỏ nghiệp gõ đầu trẻ để lấy tiền cho con đi học đại học, tôi đã phải rất trăn trở. Nhưng dường như, đó là quyết định đúng đắn nhất và là bước đột phá của cuộc đời tôi. Con gái tôi đã thành đạt và nó còn giúp hai đứa em nó nên người, có nghề nghiệp ổn định. Còn tôi, sau khi nghỉ dạy, một người bạn làm du lịch kéo đi làm hướng dẫn viên”.

Và ông Thanh từ một giáo viên dạy văn trở thành một hướng dẫn viên du lịch xuyên Việt chuyên nghiệp. Ông Thanh đến với Cù lao Chàm bởi tình yêu quê. Bởi như ông tâm sự: “Ở cái tuổi này, tôi không ham muốn rằng có thể làm kinh tế. Các con tôi có thể tự đứng vững. Tôi không phải lo toan gì nhiều. Nhưng tôi vẫn đi, đi như một niềm đam mê, một tình yêu với một mảnh đất tiềm năng đang rất cần những người dẫn tour thực sự yêu mảnh đất ấy. Ban đầu tôi không biết đi biển là gì, nhưng bây giờ, một ngày xa biển là thấy nhớ. Cù lao Chàm là một phần máu thịt của tôi”.

Những điều ông tâm sự làm tôi hình dung công việc hướng dẫn viên cho du khách đến Cù lao Chàm, ông Thanh giống như “Ông già và biển cả” vậy. Câu đến ngày thứ 85 được con cá kiếm nhưng khi về chỉ còn bộ xương thôi cũng rất vui. Niềm vui ấy, ông Thanh được hưởng trọn vẹn.

Con tàu du lịch ra Cù lao Chàm bắt đầu rẽ sóng. Tôi luôn thấy một thanh niên trên tay có quyển sổ nhỏ và cây bút đứng cạnh ông Thanh. Bất cứ điều gì ông nói, cậu đều ghi không sót. Người thanh niên ấy là một hướng dẫn viên đang vào nghề. Bạn kể rằng: “Em mới tốt nghiệp đại học. Em quyết định chọn nghề hướng dẫn viên để hoàn thiện mình. Chú Thanh là một người thầy thực sự tâm huyết và hiểu biết. Nếu làm hướng dẫn viên mà chỉ học theo những lời giới thiệu về văn hóa, lịch sử qua sách không thôi thì sẽ không bao giờ giỏi. Đi theo chú Thanh, em tìm được những thứ mà không sách nào viết được”.

Những mảnh chuyện buồn trong nghề hướng dẫn viên du lịch đã làm ông Thanh không khỏi suy nghĩ. Một lần vì tin tưởng khả năng của một nhóm thực tập sinh, ông đã mạnh dạn để họ hướng dẫn một đoàn khách quốc tế đến Cù lao Chàm. Chuyến đi khá trôi chảy, nhưng lúc về, những hướng dẫn viên trẻ kia đã gom những đồ ăn thừa vứt thẳng xuống biển. Những người khách nước ngoài hết sức giận dữ về hành động ấy. Khi trở về, họ nói với ông Thanh rằng: “Hướng dẫn viên của ông còn trẻ mà ý thức thật kém. Họ đã xả rác trên biển. Các bạn đã không yêu chính quê hương của mình thì làm sao có thể quảng bá được hình ảnh về vùng đất ấy…”.

Lần khác, bắt gặp những đồng nghiệp của mình gọi du khách kiểu “thằng Tây nọ, con Tây kia”, ông Thanh rất bức xúc: “Các bạn đang tiếp thị văn hóa và hình ảnh của đất nước mình, vậy tại sao, các bạn lại có cách ứng xử ấy. Đừng gọi họ bằng chúng nó!”.

Những người bạn quốc tế luôn nhắc tới ông Thanh bằng cả sự trìu mến và thân thiện. Bởi, lúc nào ông cũng gặp họ với một nụ cười rạng rỡ: “Tôi có thể giúp gì cho bạn?”. Những người khách quốc tế nhớ đến ông Thanh không chỉ về một hình dáng nhỏ nhắn và đôi chân khập khiễng mà còn cả sự thân thiện, lòng nhiệt tình ở mọi lúc, mọi nơi.

Nơi tàu, thuyền vào tránh bão ở Cù lao Chàm

Lênh đênh trên biển, ông Thanh kể cho chúng tôi về Cù lao Chàm bằng một niềm đam mê bất tận. Ông kể về một bà cụ tuổi đã ngoài 80 nhưng vẫn cặm cụi đan võng. Ông nhấn mạnh: “Đó là nơi đầu tiên tôi muốn giới thiệu với các bạn. Các bạn phải chứng kiến được cảnh một bà cụ kiên nhẫn ngồi đan từng mắt võng. Phải mất một tháng rưỡi mới đan xong. Nhưng tại sao bà cụ lại làm điều ấy? Các bạn hãy tự trải nghiệm”.

Mắt võng và nỗi niềm

Đặt chân lên xã đảo Tân Hiệp, hỏi về nghề đan võng, không ai là không biết đến cụ bà Nguyễn Thị Nại, 87 tuổi. Thậm chí, hình ảnh bà cụ ngồi tỉ mỉ đan từng mắt võng bên hiên nhà cũng không còn xa lạ với những du khách lưu lại ở Cù lao Chàm. Nhưng ở lần đi này, chúng tôi lại không may mắn. Cụ Nại đã đi thăm một người cháu ở đất liền. Vì thế, chúng tôi đành nghe kể về nghề đan võng qua người thân của cụ Nại.

Nhiều năm trước đây, nghề đan võng, nghề đánh bắt gần bờ và nghề đan lưới, khai thác yến là những nghề truyền thống của cư dân nơi đây. Nghề đan võng ở Cù lao Chàm có từ thời ông nội của cụ Nại. Nghề này từng rất phát triển, sản phẩm làm ra bao nhiêu tiêu thụ hết bấy nhiêu. Thế nhưng, đến giờ, cả Cù lao Chàm chỉ còn 2 người đan võng. Cụ Nại đan võng bằng vỏ cây ngô đồng truyền thống và một người nữa chuyển qua đan võng bằng dây ni-lông.

Người cháu của cụ Nại kể: “Từ hồi 14 tuổi, cứ đến mùa mưa là bà tôi theo các cụ lên núi chặt những cây ngô đồng. Về nhà, lấy thân cây đập mạnh vào đá để tước lấy vỏ, ngâm nước suối khoảng 7 đến 10 ngày, vỏ cây rục rồi rửa sạch chỉ lấy phần lõi, phơi khô, sau đó tước thành sợi nhỏ rồi đan võng”.

Cụ Nại đan võng chắc hẳn không phải vì lý do kinh tế. Bởi ở cái tuổi “cổ lai hy” với “con đàn cháu đống” thì chuyện “cơm áo gạo tiền” không còn là chuyện lớn. Mà giá trị của nghề đan võng cũng thật nhỏ nhoi. Đan một chiếc mất một tháng rưỡi, bán được 600 nghìn đồng. Thế nhưng, cụ Nại vẫn cần mẫn ngày qua ngày. Trong dáng vẻ nhẫn nại ấy, tôi hiểu rằng, cụ đang cố gắng gìn giữ nghề truyền thống. Mai này, cụ sẽ phải về với tổ tiên, thì ai sẽ là người tiếp nối nghề đan võng bằng cây ngô đồng?

Thế hệ trẻ ở Cù lao Chàm lớn lên, cũng được học hành, nhưng nghề đi biển đã cuốn chúng vào một guồng quay của cuộc sống. Bằng giọng trầm buồn của một giáo viên có kinh nghiệm lâu năm, ông Thanh kể về những giáo viên trẻ từ đất liền vào: “Có một điều oái oăm trong cái phương cách thử thách những giáo viên trẻ. Đó là khi họ vừa tốt nghiệp đại học, để được vào làm trong môi trường sư phạm, họ phải đến những vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Vừa ra trường với bao ước mơ, khát vọng cháy bỏng, họ đã phải gặp những khó khăn mà ngay chính người lâu năm trong nghề cũng không dám đối mặt: học sinh bỏ học, nhớ nhà, chồng con muộn…”.

Lên đảo, nơi dừng chân tiếp theo của chúng tôi là khu tập thể của những giáo viên từ đất liền ra. Dù từng được gặp những giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, sống trong cảm giác trống trải, cô đơn nhưng tôi vẫn không khỏi xúc động khi gặp những giáo viên trên xã đảo Tân Hiệp này…

(Còn nữa)

Bài và ảnh: HỒNG VÂN – MAI HƯƠNG