 |
Đại tá Trần Văn Thà, (đứng thứ 2 từ trái sang) |
Đại tá Trần Văn Thà, nguyên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 47 (người đã được nhà viết kịch Đào Hồng Cẩm lấy nguyên mẫu để viết vở kịch “Đại đội trưởng của tôi”)-đơn vị đã đánh trận Cửa Việt tháng 1 năm 1968. Trong một lần đến thăm báo Quân đội nhân dân, ông đã kể lại những kỷ niệm của những ngày ác liệt đó…
Nhận nhiệm vụ mới
Sau gần ba năm chiến đấu trên đảo Cồn Cỏ, tôi được lệnh trở về đất liền nhận nhiệm vụ mới. Đêm 25-12-1967, vừa đặt chân lên Vĩnh Linh, nghe tiếng trẻ khóc từ dưới hầm vọng ra, tôi không sao cầm được nước mắt. Thật diệu kỳ! Giữa chảo lửa Vĩnh Linh, nơi kho bom, túi đạn giặc Mỹ trút xuống mà sự sống vẫn đâm chồi nảy lộc! Bất giác lòng cồn cào nỗi nhớ vợ và hai con trai, lâu nay thư từ cũng không nhận được, vì đảo xa mà bom đạn địch khốc liệt quá!
Từ đảo lên đất liền nhận nhiệm vụ mới, tôi không khỏi bỡ ngỡ, địa hình, địa vật, thủ đoạn tác chiến của địch đối với tôi hoàn toàn xa lạ. Ngày 14-1-1968, tôi được giao giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn bộ binh 47. Tiểu đoàn có nhiệm vụ: Chặn đứng sự tiếp tế của Mỹ-ngụy bằng đường sông từ Cửa Việt lên Đông Hà, Tà Cơn, Khe Sanh; phối hợp cùng dân quân các xã đánh chiếm, giữ vững đoạn sông từ chợ Hôm đến ngã ba sông Bồ Điền (sông Hiếu). Tham gia chiến đấu cùng tiểu đoàn còn có du kích các xã: Gio Mỹ, Gio Hà, Gio Hải và Cam Giang, phái viên cấp trên là hai đồng chí Phạm Ngọc Khôi và Nguyễn Ngọc Năng, hai phóng viên báo Quân đội nhân dân là đồng chí Lê Đình Dư và đồng chí Nguyễn Ngọc Nhu. Ngày 20-1-1968, đơn vị chúng tôi hành quân vượt sông Bến Hải đánh địch, chiếm lĩnh trận địa. Tiểu đoàn cùng với lực lượng phối thuộc hơn một nghìn người hành quân dưới giao thông hào, ra bến đò Tùng Luật để vượt sông. Bến đò chỉ có 5 ghe do các o dân quân chèo, mỗi ghe chở được 30 người. Máy bay và pháo binh địch bắn như vãi đạn trên sông. Chúng tôi vừa tổ chức cho bộ đội vượt sông, vừa triển khai đánh địch. Một giờ sau, cả đơn vị tôi đã chiếm lĩnh các vị trí theo đúng phương án tác chiến. Đại đội đặc công làm nhiệm vụ thả mìn, thủy lôi từ Xuân Khánh lên Xóm Kênh. Đại đội bộ binh 2 chiếm lĩnh Xuân Khánh - Hoàng Hà. Đại đội bộ binh 1 chiếm lĩnh thôn Nhĩ Hà - Gio Mỹ. Đại đội bộ binh 3 chiếm lĩnh thôn Xóm Kênh. Hỏa lực ĐKZ đánh tàu địch ở bờ sông. Còn lực lượng 12,7mm bố trí ở lòi rừng Lâm Xuân Đông. Đại đội bộ binh Gio Linh chiếm lĩnh làng Mai Xá, Lâm Xuân Tây.
Những thử thách đầu tiên…
Ngày 21-1-1968, địch bắn pháo bầy suốt đêm, mới 6 giờ sáng các loại máy bay địch thay nhau quần thảo ném bom, bắn rốc-két trên toàn trận địa. Tám giờ, ta đánh chìm một tàu vận tải và bắn cháy hai sà lan, một tàu hộ tống trên sông Hoàng Hà - Mai Xá Thị. 10 giờ, trung đoàn 2 ngụy, một tiểu đoàn biệt động và tiểu đoàn 1 bờ biển Mỹ dựa vào hỏa lực mạnh với 20 xe thiết giáp ồ ạt tấn công vào trận địa của ta. Bộ đội ta đánh trả quyết liệt, bắn cháy ba xe thiết giáp và diệt nhiều tên địch. 15 giờ 30 phút, một đại đội bộ binh ngụy chiếm được một phần thôn Xóm Kênh và khoảng hai đại đội bộ binh ngụy với 3 xe thiết giáp chiếm 1/3 thôn Lâm Xuân Đông. Ta kiên quyết giành giật lại những gì đã mất. Tôi vừa chỉ huy đơn vị, vừa chiến đấu như một chiến sĩ. Tôi nói với nhà báo Lê Đình Dư: Anh Dư ạ, anh đã cùng tôi suốt trận đánh, tư liệu có rồi, anh nên về chỗ đồng chí Thanh Lục ở đó có hầm tốt hơn. Anh Dư nói: "Không! Anh ở đâu tôi ở đó. Người chiến sĩ có thể nằm bắn, quỳ bắn, đứng bắn, còn phóng viên chúng tôi phải đứng thẳng thì mới làm được nhiệm vụ. Vị trí anh ở đâu thì tôi ở đó". Vài phút sau, Dư trúng đạn hy sinh, chiếc máy ảnh Dư luôn đeo bên mình vỡ nát, trong tay anh vẫn nắm chặt khẩu AK. Khoảng 16-17 giờ, ta đánh bật địch ra khỏi các vị trí chúng vừa chiếm được. Bộ binh địch vừa rút ra thì máy bay đến trút bom và pháo binh địch thi nhau vãi đạn vào trận địa.
Một quyết định khó khăn
Qua hai ngày chiến đấu, ta bắn cháy 2 máy bay, 6 xe tăng thiết giáp, 5 tàu hộ tống và sà lan, đánh chìm 4 tàu vận tải tiêu diệt khoảng 300 tên ngụy và 25 tên Mỹ, bên ta thiệt hại cũng không nhỏ: 33 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, bị thương 71 đồng chí. Hai nhà báo Lê Đình Dư và Nguyễn Ngọc Nhu đi cùng tiểu đoàn hy sinh, đạn dược gần hết. Khi anh em mai táng nhà báo Lê Đình Dư, tự tay tôi bỏ phần còn lại của chiếc máy ảnh vào mộ anh. Đang xác định vị trí để làm dấu mộ của Dư thì đồng chí Ngãi liên lạc tiểu đoàn chạy đến, mời tiểu đoàn trưởng đến họp. Sau một số ý kiến, cuộc họp biểu quyết 5/6 đồng chí đồng ý rút ra, chỉ có tôi không đồng ý vì cho rằng, ta có thiệt hại, nhưng địch cũng thiệt hại nặng, trận địa vẫn giữ vững, sao không củng cố để ngày mai đánh tiếp? Tuy tôi không nhất trí nhưng vẫn chấp hành ý kiến tập thể.
Tôi ra lệnh nhanh chóng giải quyết thương binh tử sĩ, thu gọn đội hình hành quân theo hướng ngược lại, hàng quân đi dưới ánh pháo sáng chập chờn, anh em cúi mặt xuống đất lầm lì không nói, tôi cứ nghĩ như mình đã có lỗi với anh em! Lòng day dứt bồn chồn không yên. Sự hy sinh của 33 cán bộ, chiến sĩ chưa kể đến hơn 70 đồng chí bị thương bây giờ đổi lại là sự rút lui cay đắng này sao? Trong tai tôi còn văng vẳng lời nói của nhà báo Lê Đình Dư trước khi hy sinh: "Phóng viên thì phải đứng thẳng thì mới làm được nhiệm vụ. Anh ở đâu tôi ở đó". Như chợt tỉnh, tôi chạy đi tìm Phạm Ngọc Khôi phái viên chính trị, thộp ngực áo quát: "Mày là phái viên chính trị sao mày cũng đồng ý rút lui?". Khôi khẽ khàng "rút lui là sai lầm". "Sao bây giờ mới nói hỡi Khôi?". Tôi nói, dù không có ai tôi vẫn ở lại. Khôi bảo luôn: "Tôi cũng ở lại với anh!". Tôi lao đi tìm gặp đồng chí Điệu, tôi nói, các anh cứ ra tôi ở lại, thấy vậy Điệu nói: Anh ở lại tôi cũng ở lại. Nghe vậy tôi chạy lên phía trước đội hình kêu lớn: "Yêu cầu anh em tiểu đoàn 47 đứng lại". Anh em đứng quây quanh tôi, tôi đứng lên cồn cát cao và nói: "Thưa anh em, tôi là Trần Văn Thà-Tiểu đoàn trưởng 47 xin lỗi tất cả anh em! Rút ra trong lúc này là một sai lầm, mong anh em tha thứ! Bây giờ tôi kêu gọi anh em ở lại cùng tôi đánh địch, giữ vững bờ sông Cửa Việt dù phải hy sinh. Tôi không ra lệnh mà kêu gọi ai đồng tình thì đi theo tôi. Nói xong, tôi mang AK đi trước, anh em cùng lần lượt theo sau. Đến làng Lâm Xuân Đông tôi kiểm lại, thật mừng, đội hình có hơn một trăm anh em. Anh Điệu và anh Khôi cũng ở lại. Tôi tổ chức lại thành hai trung đội bộ binh, một khẩu cối 82mm, một khẩu ĐKZ, hai khẩu 12,7mm. Thông tin có một đài 15W, một máy 2W nhưng đều bị hỏng, một trợ lý hậu cần, một quân y sĩ. Tôi cho triển khai đội hình chiến đấu như sau: Một tổ bộ binh 4 đồng chí có một trung liên, 3 AK, một B40 đánh chặn địch từ chi khu Gio Linh xuống Lâm Xuân Đông rồi rút về Hoàng Hà; một khẩu ĐKZ 75 có một tiểu đội bộ binh bảo vệ, có nhiệm vụ bắn tàu ở trước thôn Hoàng Hà, đánh xong rút về Rú sau Hoàng Hà; hai trung đội bộ binh, ngụy trang dưới cát sau xóm Rú-lòi rừng lúp xúp. Bộ phận 12,7mm, cối 82mm và các đồng chí chỉ huy ở lòi Rú Hoàng Hà".
Trận chiến đầy cam go
Ngày 22-1-1968, đúng 8 giờ, tổ ĐKZ bắn cháy một tàu chở hàng trước thôn Hoàng Hà. Sau đó nhanh chóng rút về Rú Hoàng Hà làm lực lượng dự bị. Đến 10 giờ, khoảng hai đại đội lính ngụy không có thiết giáp từ Gio Linh tiến xuống Nhĩ Hạ (Gio Thành). Bọn địch dò dẫm đến Lâm Xuân Đông, thì bộ binh của ta chờ sẵn, nhất loạt nổ súng diệt 2 tên, bị thương 3 tên. Bị đánh bất ngờ, bọn địch lùi về Nhĩ Hạ, gọi pháo bắn vào Lâm Xuân Đông và gọi trực thăng đến đưa bọn chết và bị thương về. 16 giờ địch tràn vào Lâm Xuân Đông, chúng đốt phá, lục soát nhưng không thấy quân ta. Cả hai đại đội địch hành quân hàng dọc từ Lâm Xuân Đông xuống Hoàng Hà, nhắm vào trận địa ĐKZ, đại đội ngụy đi đầu triển khai lực lượng tiến vào Hoàng Hà, đại đội đi sau dồn đội hình lên đúng ngay họng súng của chiến sĩ ta nằm chờ không đầy 100m. Khi bọn địch lọt vào ổ phục kích, các chiến sĩ ta nhất loạt nổ súng, ngay từ loạt đạn đầu quân ta đã diệt tại chỗ được 5 tên và một tên bị thương. Trong lúc bọn địch đang bị động, bộ đội ta xung phong. Quá hoảng loạn, bọn địch chạy tán loạn về hướng Cửa Việt, gọi pháo từ tàu biển bắn vào Hoàng Hà, hai đồng chí của ta hy sinh. Lúc này máy bộ đàm 2W đã sửa được. Tôi báo cáo về mặt trận: "Tiểu đoàn 47 đánh thắng địch và đang ở Hoàng Hà". Sau đó tôi lệnh cho bộ đội rút toàn bộ lực lượng về Lâm Xuân Đông ăn cơm, tắm rửa để cho địch mặc sức nã pháo vào Hoàng Hà.
Khoảng 3 giờ sáng ngày 23-1-1968, toàn bộ lực lượng tiểu đoàn đã triển khai xong theo phương án đã định; tám giờ, một tàu chở hàng của địch xuất hiện trước thôn Xóm Kênh liền bị ĐKZ 75 với 2 viên đạn bắn cháy, chúng tức tối dùng pháo và máy bay AD6 ném bom, bắn rốc-két như mưa vào các làng Xóm Kênh-Mai Xá Thị. Nhân dân sơ tán về Đông Hà, làng xóm vốn đã tan hoang do chiến sự lại càng thêm tiêu điều xơ xác. Suốt hai ngày 24 và 25 bộ binh địch cố thủ trong căn cứ. Đường sông tàu chở hàng của địch không hoạt động, chỉ có tàu tuần tiễu vừa chạy vừa bắn loạn xạ. Trên không, trực thăng vận tải được trực thăng vũ trang và máy bay F4E hộ tống chở hàng từ tàu biển lên tiếp tế cho Tà Cơn - Khe Sanh. Chỉ có phi cơ và pháo nã đạn liên tục vào các làng có bộ đội ta chiếm giữ. Tôi cho tất cả bộ đội ra hết ngoài rìa làng để tránh phi pháo và sẵn sàng đánh địch nếu chúng liều lĩnh vào làng, nhờ đó mà đỡ thương vong.
Trong lúc bọn địch hoang mang, lo sợ, chúng tôi lại viết thư cho địch ở Gio Linh cho người ra khiêng xác 25 tên ngụy chết và 5 tên bị thương vào chi khu với điều kiện: Không mang vũ khí, cầm cờ trắng, ngưng hoạt động bắn phá bằng pháo và phi cơ trong vòng 3 ngày. Địch chấp nhận điều kiện. Tranh thủ khoảng thời gian “ngừng chiến” ngắn ngủi, chúng tôi tập trung củng cố trận địa và bổ sung quân, vũ khí, đạn dược. Đảng ủy tiểu đoàn họp tại Lâm Xuân Tây, ra nghị quyết chiếm lĩnh bờ sông Cửa Việt, kiên quyết đánh địch, thề hy sinh trên bờ sông Cửa Việt để bảo vệ cho bộ đội chủ lực vượt sông vào chi viện cho Huế. Ngày 31-1-1968 (ngày 30 Tết Mậu Thân), chúng tôi đón giao thừa ở Mai Xá, cũng có bánh tét, thịt, nước trà và "pháo bông" của địch. Trong khi cả miền Nam nổi dậy tiến công địch thì nơi đây lại im lìm tiếng súng, một sự im lặng rùng rợn khác thường. Những ngày đêm cam go ấy, chúng tôi không thể quên hình ảnh mẹ Nậy ở Mai Xá Thị kiên quyết bắt cán bộ, chiến sĩ đại đội 1 dỡ nhà mẹ để làm hầm nấu cơm cho bộ đội ăn. Từ chối không được, anh em đành dỡ nhà mẹ làm hai cái hầm kèo, để mẹ ở một cái, còn một cái anh em nuôi quân dùng nấu ăn. Mẹ còn dạy: "Các chú đánh tàu sao không ra lòi ngoài sông ở bến đò mà núp bắn cho gần, ở trên bờ xa ngái bắn khó". Nghe lời mẹ, chúng tôi đưa súng B41 và ĐKZ 75 ra các lòi bến đò bắn tàu địch rất dễ trúng và kín đáo. Nhờ vậy ta bắn cháy 5 tàu tiếp tế của địch từ các lòi bụi này.
Tháng 2-1968, cả tháng trời chúng tôi bằng nhiều chiến thuật đắp đập ngăn sông Hiếu, thả mìn, thủy lôi trên sông tiêu diệt nhiều tàu tuần tiễu và tàu chở hàng của địch tiếp tế cho Tà Cơn, Khe Sanh. Vừa ngăn chặn hàng tiếp viện, ta vừa tích cực chủ động đánh tiêu hao sinh lực địch, buộc địch phải vận chuyển hàng tiếp tế bằng trực thăng. Ngày 8-2-1968 đồng chí trung sĩ Cao Lương Bằng dùng AK bắn rơi một trực thăng vũ trang của Mỹ trên cánh đồng Mai Xá Thị- Lâm Xuân Tây. Ngày 1-3-1968 địch đưa tàu há mồm và 11 xe lội nước, nhiều thuyền máy cao su đổ quân đánh chiếm làng Mai Xá Thị. Trong trận đánh tại Mai Xá Thị của đại đội 1, tiểu đoàn 47 đồng chí trung sĩ tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Lộc một mình bắn cháy 2 xe thiết giáp, diệt 10 tên Mỹ. Cả đại đội bắn cháy 5 xe thiết giáp và diệt 50 tên Mỹ, 40 tên bị thương. Từ ngày 15 đến 19-3-1968, tiểu đoàn 47 được lệnh phối hợp với pháo 130 và đặc công nước, tập kích khu kho hậu cần của Mỹ ở Cửa Việt, cả khu kho Cửa Việt lửa cháy ngút trời. Tôi nhanh chóng cho bộ đội rút về Thụy Khê an toàn. Trận này ta diệt 140 tên địch, đốt cháy 5 nhà kho đầy hàng và diệt 30 xe quân sự trong đó có 3 xe thiết giáp.
10 giờ ngày 6-5-1968, 2 xe bọc thép và một đại đội Mỹ từ Nhĩ Hạ Chợ tiến lên Nhĩ Trung, xóm Phường, ĐKZ 75 và B41 của ta bắn cháy ngay 2 xe bọc thép, bị bất ngờ bọn Mỹ gần như không bắn trả. Chỉ trong vòng 3-5 phút đầu, hơn 50 tên Mỹ bị gục ngã trước mũi súng của bộ đội ta. Thừa thắng, quân ta đồng loạt xông lên. Cánh đồng Nhĩ Trung - Nhĩ Hạ khô rang, bộ đội dùng lưỡi lê đánh giáp lá cà tiêu diệt địch, trung đội trưởng Nguyễn Quang Triêm-người con của Vĩnh Lâm dẫn bộ đội thọc thẳng giữa đội hình Mỹ mà tiêu diệt chúng, làm chủ chiến trường. Tiểu đội trinh sát của Nguyễn Ngọc Trung tạo thành một mũi vòng bên phải, đánh vào sườn trái của địch làm cho đội hình của chúng bị rối loạn, đồng chí trung đội trưởng Nguyễn Văn Lộc, khi súng hết đạn đã tay không lao vào vật lộn với một tên Mỹ to lớn, Lộc dùng tay siết cổ nó, 5 đầu ngón tay lún sâu vào cổ giết chết tên Mỹ. Thấy thế, một tên Mỹ khác đã bắn Lộc hy sinh. Khi làm công tác tử sĩ, đồng đội gỡ mãi tay Lộc mới buông ra khỏi cổ tên Mỹ, trận này tiểu đoàn 47 diệt hơn 100 tên, bắt sống tù binh.
Đêm 9-5-1968, chúng tôi vượt Cửa Tùng về lại Vĩnh Linh chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Vẫn biết phía trước còn nhiều khó khăn, nhưng toàn thể đơn vị háo hức chờ sớm được giao nhiệm vụ mới để cùng toàn quân, toàn dân đánh tan bọn Mỹ-ngụy, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
*
* *
Ba mươi lăm năm sau, tôi có dịp trở lại Gio Linh, cảnh hoang tàn của chiến tranh không còn nữa. Mảnh đất Gio Linh bị bom đạn cày xới năm xưa nay đã được khoác trên mình một màu xanh thắm của cây trái. Giữa mùa hè, trời Quảng Trị như xanh hơn. Thật lạ, nắng Quảng Trị là thế mà cây trái vẫn xanh mướt. Phải chăng, thiên nhiên, đất trời muốn trả lại màu xanh cho Quảng Trị, bởi nơi đây vốn đã bị mất mát quá nhiều của chiến tranh? Nhiều ngôi nhà khang trang được mọc lên cùng những ngôi trường cao tầng ríu rít tiếng trẻ thơ.
Nghĩa trang liệt sĩ xã Gio Thành, nơi yên nghỉ của 504 liệt sĩ vừa mới được sửa sang, nơi đây liệt sĩ-nhà báo Nguyễn Ngọc Nhu của báo QĐND đang yên nghỉ, chúng tôi thắp hương ông và các đồng đội của ông, nhiều người là cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 47. Nhìn những bia mộ ghi dòng chữ “Liệt sĩ chưa biết tên”, chúng tôi ai cũng thấy nao nao, nghẹn ngào, thổn thức.
Giữa trưa hè nắng cháy lưng, nhìn khói hương nghi ngút, bất giác tôi ngước nhìn bầu trời Quảng Trị, trong cái nắng gay gắt ấy, màu xanh ngút ngàn của cây trái chính là sự hồi sinh kỳ diệu ở nơi đây.
Đại tá Trần Văn Thà kể
LÊ QUÝ HOÀNG ghi