Nụ cười chiến sĩ công binh hải quân

2. Giọt mồ hôi trên sóng bạc đầu

Đảo Song Tử Tây một ngày nắng cháy. Những bóng người trên cầu cảng đang hối hả chuyển những bao vật liệu xây dựng từ thuyền lên bờ. Chẳng dễ thở khi phải làm việc dưới cái nóng hầm hập này. Tiếng xuồng máy, tiếng máy trộn bê tông ầm ầm.

Nụ cười chiến sĩ xây dựng

Đang men theo bờ kè tha thẩn, bỗng tôi nghe tiếng gọi giật lại: “Nghệ sĩ ơi, vào đây uống nước đã”. Quay lại, tôi thấy một đồng chí đại úy hải quân đang cười tươi, vẫy tay rối rít. Anh là Lưu Đức Trọng, chính trị viên đại đội 4, đơn vị T3 công binh Hải quân. Đây là đại đội anh hùng của Trung đoàn công binh 2 lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Trời nắng thế này, phải đội mũ vào không thì cảm chết. Anh chưa quen thời tiết ở đây đâu.

Vừa nói, anh vừa rót nhanh chén trà đưa tôi. May quá, tôi đang khát khô cả cổ.

Hóa ra, anh Trọng nhầm tưởng tôi là thành viên của đội văn công đi cùng đoàn công tác phục vụ các chiến sĩ. Anh Trọng quê ở Hải Dương, đã ra đây được vài tháng. Đơn vị đang phải gấp rút xây dựng hội trường, nhà tiếp dân để đón khách từ đất liền đến thăm đảo. Trời nắng gắt, khô như rang, hơi muối từ biển xông lên khiến ai cũng chỉ muốn chui ngay vào bóng râm, ấy thế mà cả đơn vị của anh đều đang phơi mình ra nắng gió, hối hả làm việc. Mặt họ đen sạm, tóc quăn cháy vì nắng. Đời thợ xây là vất vả, xây công trình trên biển lại vất vả gấp bội phần. “Chúng tôi phải tính toán chi li từng cái đinh, từng lít nước ngọt vì ở đây xa đất liền, vật liệu được cung ứng theo từng chuyến tàu ra”.

Tôi đến thăm nơi ăn nghỉ của đơn vị. Phòng của ban chỉ huy đại đội 4 vừa dùng để tiếp khách, vừa để ngủ. Chính giữa phòng là một bàn gỗ cũ kỹ và hai ghế dài. Cạnh đó là một tấm phản được kê cao, trên có chăn chiếu được gấp rất vuông vức. Cạnh đó là một chiếc tủ có hai cửa, bên trong là chiếc ti-vi 21 inch. Ở đảo xem ti-vi là tiết mục giải trí thú vị nhất. Mỗi đảo đều có khoảng dăm cái ti-vi, có ăng-ten “chảo” để thu sóng. Nhưng chỉ buổi tối khi máy phát điện trên đảo hoạt động thì mới xem được ti-vi. Cả đại đội quây quần xem thời sự để biết tin tức của đất liền. Ngày nào có chương trình “Chúng tôi là chiến sĩ” thì các anh háo hức ngồi trước màn hình và cười như nắc nẻ trước sự hài hước của đồng đội ở khắp mọi miền Tổ quốc.

Tuy làm nhiệm vụ xây dựng công trình nhưng mọi chế độ điều lệnh quân đội vẫn được các anh chấp hành nghiêm. Ở tất cả các phòng, giường, chiếu, chăn màn đều được gấp vuông vắn, ngăn nắp. “Ở như thế này là hạnh phúc rồi. Nếu làm công trình đảo chìm, chúng tôi phải đóng cọc, làm những tòa nhà cao chân để ở, rồi đổ đá xuống để xây công trình. Hằng tháng trời ăn nằm trên biển. Ai sức khỏe không tốt thì lăn ra ốm ngay”-anh Trọng nói.

Lính công binh hải quân ớn nhất là làm kè chắn sóng. Con người và biển chạy đua, đọ trí, thi sức với nhau. Chuyện làm kè ở An Bang, hòn đảo nổi tiếng về sự dữ dằn của những con sóng, được lính công binh biển kể cho nhau nghe. Tại đảo này, sóng dữ triền miên quanh năm, anh em đã phải “lừa” con sóng, lợi dụng lúc nước triều xuống để thi công. Các công đoạn phải làm thật nhanh, vì khi triều lên, sóng sẽ đánh tan tất cả.

Ở đâu có bóng người chiến sĩ công binh thì ở đó, việc ăn ở của các chiến sĩ chốt giữ đảo chắc chắn được cải thiện rõ rệt. Những người lính thợ làm việc quên ngày đêm, chạy đua với thời gian.

Khuôn mặt của Trung sĩ công binh Nguyễn Xuân Yên ở trên đảo Sinh Tồn thỉnh thoảng lại hiện ra trong tâm trí tôi. Đó là khuôn mặt đặc trưng cho công binh Hải quân: tóc hơi cháy, mặt rám nắng… Nhưng Yên rất dễ thương với nụ cười bẽn lẽn như con gái. Yên sinh năm 1984, quê ở Nam Định, cũng mới ra đảo được mấy tháng thôi. Đơn vị của Yên đang xây 3 công trình trên đảo, thời gian khá gấp rút nên nhiều lúc phải làm 3 ca.

Tôi chú ý đến Yên bởi khi đoàn công tác lên đảo Sinh Tồn, các chiến sĩ được tập hợp ở hội trường để xem văn công. Ai cũng háo hức vì lâu lâu mới có văn công tới đảo. Nhưng tôi vẫn thấy một tốp bạn trẻ mặc đồ bảo hộ lao động ngồi túm tụm ở xa mắt nhìn về phía hội trường, mặt lộ vẻ buồn. Tiến tới gần họ, tôi hỏi: “Sao anh em không vào xem biểu diễn”. Yên trả lời vì đơn vị công binh vẫn chưa nhận được lệnh nghỉ, sắp tới 13 giờ 30 phút rồi, chuẩn bị vào ca mới. Đứng gần đó có một đồng chí hải quân đeo hàm Thượng tá, biết chuyện đồng chí liền lệnh cho anh em được nghỉ. Lính trẻ mừng quá ôm lấy nhau reo ầm cả lên, ba chân bốn cẳng chạy về lán trút vội bộ bảo hộ lao động, vận lên người quân phục hải quân. Nom ai cũng chững chạc và… đẹp trai hẳn. Ca sĩ hát không có micro (vì đoàn chỉ ở đảo khoảng 2 giờ đồng hồ nên đội văn công được lệnh không triển khai bộ âm thanh cồng kềnh) nhưng nghe vẫn thật hay, ai cũng say sưa, vỗ tay hát theo. Yên và đồng đội ôm nhau cười khanh khách, đầy vẻ ngây thơ, trong sáng. Khuôn mặt họ sáng bừng rạng rỡ. Tôi có cảm giác như trên đảo Sinh Tồn vào lúc ấy là một thế giới khác hẳn, một thế giới đầy lãng mạn mà ở đó con người sống thật thánh thiện. Những ham muốn vật chất đang tồn tại ngoài xã hội không thể xâm phạm được vào đây, nơi con người dành trọn tình yêu cho Tổ quốc. Họ chỉ biết tới nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ, không đòi hỏi bất cứ điều gì. Cuộc sống của họ là chuỗi ngày phấn đấu và cống hiến, nỗ lực vượt mọi khó khăn.

Nhìn khuôn mặt hồn nhiên của Nguyễn Xuân Yên lúc ấy, chắc không mấy người nghĩ anh là một tiểu đội trưởng gương mẫu, rất chững chạc khi chỉ huy tiểu đội. Yên nói, nhớ nhà nhất là tuần đầu tiên. Chiều tối, khi mọi việc đã xong xuôi, anh em lại ra ngồi ngoài bờ kè nhìn về hướng tây, nơi người thân của mình đang sống. “Nhiều lúc tĩnh lặng chỉ có tiếng sóng biển vỗ mà em có cảm giác như đâu đó quanh em có tiếng sáo diều vi vu của cánh đồng chiều ở quê. Ở đất liền thấy cuộc sống bình lặng, đi xa nhà cũng chẳng nhớ mấy, mà sao ra đây nhớ người thân da diết thế. Em nhớ cả con Quấy (tên con chó) nhà em. Lúc em đi thì nó vừa đẻ xong. Chắc bây giờ lũ con của nó đã lớn rồi”. Nhớ nhà thế nhưng vì là tiểu đội trưởng, Yên vẫn luôn gương mẫu để động viên anh em. “Rất may là trước khi ra đây, mọi người đã xác định tư tưởng rất tốt nên chỉ một vài tuần là quen. Với lại, sau này công việc bận, chẳng ai có thời gian để mà buồn nữa”.

Xây dựng nhà khách đón dân ở đảo Song Tử Tây

Qua các đảo thấy nhà ở khang trang, công sự, trận địa vững chắc, các bể lớn chứa nước mưa… mới thấy công sức to lớn của những bóng người khoác áo bảo hộ xanh thẫm đang bất chấp sóng gió, thách thức thiên nhiên, miệt mài ngày đêm xây dựng công trình trên các đảo. Nhiều đảo đã xây dựng các nhà cấp 1 có tường dày 90cm, cách nhiệt rất tốt.

Biển đêm tĩnh lặng

Biển đêm nay yên bình quá. Đại úy Lưu Đức Trọng ngồi lặng yên, đốm sáng từ điếu thuốc đỏ lòe trên môi anh. Quanh năm bôn ba xây dựng ở các đảo, cuộc sống của anh và đồng đội gắn liền với từng con sóng, bãi cát san hô. “Vì thế, gần như 100% anh em trong đơn vị đều chưa lập gia đình, thậm chí có người hơn 30 tuổi mà chưa một mảnh tình vắt vai”. Anh cười: “Con gái nghe thấy trai T3 là khiếp, không dám yêu. Bởi yêu anh T3 là yêu “sự đợi chờ suốt năm, suốt tháng”. Nhiều anh vừa lấy vợ, sau tuần trăng mật là lại khoác ba lô ra đi, con được hơn một tuổi rồi mà vẫn chưa biết mặt. Giọng anh thoáng buồn: “Trong thời bình hiện nay, bắt phụ nữ chờ đợi và chịu đựng khó lắm. Lấy chồng, họ mong muốn tìm được chỗ dựa vững chắc. Đằng này, chồng đi biền biệt, mọi việc ở nhà phải do họ gánh vác. Người biết cảm thông thì còn được, người hay so bì thì…”.

Năm 2006, đơn vị kỷ niệm 30 năm xây dựng các công trình ở Trường Sa. Trong 30 năm oai hùng ấy của đơn vị, đã bao con người phải hy sinh hạnh phúc cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ. Thượng tá Hoàng Duy Lập, chỉ huy trưởng của đơn vị đã 28 năm gắn bó với các công trình ở Trường Sa. Thượng tá Lập nói vui, tính ra mỗi năm chỉ được ở nhà với bà xã khoảng 2 tháng, còn lại là “ăn, nằm” với biển, đảo. Đồng chí Lập nửa đùa, nửa thật: “Chuyện “mồ côi” vợ đối với công binh hải quân là chuyện thường. Có những người 42-43 tuổi vẫn “giường đơn, gối chiếc”… “Là người lính, đảm nhiệm nhiệm vụ thiêng liêng Tổ quốc giao phó, nào ai dám từ nan. Nhưng nhiều lúc cũng thấy thương anh em, làm việc nặng nhọc ở môi trường đầy khắc nghiệt nhưng ngoài lương, phụ cấp thì anh em chỉ được thêm 5.000đ/ngày công”-anh Lập tâm sự.

Sau mấy năm nghĩa vụ, ra quân, anh em chiến sĩ sẽ được đơn vị tạo điều kiện cho học thêm nghề lái xe. Một số may mắn sẽ được đi xuất khẩu lao động. Nhưng một phần không nhỏ sẽ phải về quê, lo toan kiếm sống với bao vất vả đời thường.

Câu chuyện của anh Lập, anh Trọng khiến tôi càng quý trọng, khâm phục những người lính đảo ở Trường Sa. Để hoàn thành nhiệm vụ họ đã phải âm thầm vượt qua bao thử thách ở mặt trận không tiếng súng, tiếng bom nhưng lại chứa đựng những thử thách thật sự. Nhưng chất lãng mạn, tình yêu dạt dào của người lính thì không vì thế mà mất đi. Câu chuyện của Trung úy Lưu, quê ở Diễn Châu-Nghệ An, cũng đang đứng chân trên đảo Song Tử Tây khiến lòng tôi nhẹ hơn. Cưới vợ, sau tuần trăng mật là Lưu vội vã ra đi. Xa nhà được 8 tháng rồi, yêu nhau gần 10 năm, chưa khi nào Lưu nhớ vợ da diết như lúc này. Lúc chúng tôi ở đảo, vợ Lưu đang mang thai gần đến ngày sinh nở, thư viết cho chồng chị dùng biết bao nhiêu là từ “nhớ”. “Tôi nói với cô ấy rằng: “Em đừng nhớ anh nhiều quá, không con giống anh thì xấu lắm, con gái mà. Gì chứ giống bố ở cái khoản tóc cháy, da đen, lớn lên nhỡ ế chồng thì khổ”. Ai ngờ vợ Lưu trả lời rằng: “Vì em biết con sẽ giống anh nên em đang mong con từng ngày. Thấy con là như nhìn thấy anh, em sẽ vững lòng hơn. Em mong con sẽ có nét rắn rỏi, sự sâu sắc trong tâm hồn của người lính biển…”.

Đêm Song Tử Tây chìm trong tĩnh lặng. Biển rì rào con sóng ru giấc ngủ êm. Ở bờ kè ngoài kia có cái bóng bất động của người lính thủy đang đứng gác. Trong trái tim anh là đất liền yêu dấu…

Bài và ảnh: HỒ QUANG PHƯƠNG