9. Nghe chuyện khát giữa ngày mưa

Ngày 20-5-1989.

Buổi sáng xuống tiểu đoàn Ba, tiểu đoàn vừa trở về sau một đợt truy kích địch, đang củng cố đơn vị. Anh Nhất, cán bộ Phòng chính trị đi cùng, giới thiệu với chúng tôi: “Tiểu đoàn trưởng Hùng mới 23 tuổi nhưng đánh đám rất cừ”. Tiếc là lúc chúng tôi xuống thì Hùng lại đi vắng, không gặp được.

Tiểu đoàn ba đóng xa trung đoàn nhất. Lúc chúng tôi trở về đã quá trưa, trời nắng chang chang. Gặp một chiếc xe ngựa cùng chiều, xin đi nhờ, “nhà xe” gật đầu luôn. Xe chở mấy bao tải muối xếp trên sàn gỗ. Ngoài chú bé đánh xe đen nhẻm, đội chiếc mũ rộng vành nhàu nhĩ màu cứt ngựa, trên xe còn có một thiếu phụ trạc ngoài ba chục tuổi đang bế một cháu nhỏ, chắc là con của chị. Cũng chẳng rõ chị là bà chủ hay cũng là khách đi nhờ, vì hình như chị không biết tiếng Việt nên hơi ít nói. Một phụ nữ trông dễ cảm tình với khổ người “đầy đặn”, da ngăm ngăm màu thôn quê càng tôn thêm nét duyên ngầm ở ánh mắt, khóe miệng mỗi khi chị cười thay cho những câu bắt chuyện của chúng tôi.

Đường nhựa nham nhở lồi lõm vậy mà chú ngựa tinh khôn tránh được hết nên xe không đến nỗi xóc. Mỗi khi có tiếng còi ô tô hoặc xe máy phía sau là chú ngựa cũng biết áp sát lề đường bên phải. Những “cử chỉ” ấy của chú ngựa cùng với tiếng nhạc leng keng treo trên cổ khiến tôi thấy vui vui, ngồ ngộ… Đặc biệt, chẳng ai “bảo” với nó, thế mà đến gần cổng doanh trại trung đoàn, nó tự động dừng lại cho chúng tôi xuống.

Trước cổng trung đoàn cũng có hàng quán lúp xúp, nhưng chủ quán toàn người địa phương. Chúng tôi vào một quán có cô chủ trông bắt mắt nhất. Cô bé trắng trẻo, tóc đen, mắt sáng, khuôn mặt tươi tắn, biết nói tiếng Việt nên rất chịu tán với khách bộ đội Tình nguyện. Em tên Út-chắc là xạo nhưng bảo thế thì các anh cứ gọi thế-năm nay hai mươi tuổi và chưa thương ai. Bộ đội khen em đẹp, nhưng em bảo “không đẹp bằng con gái Việt Nam đâu”. Sao em biết? “Nhiều anh có ảnh con gái cất trong ví, cho em xem rồi…”

Buổi chiều, lại lên xe mui trần trở về sư đoàn bộ. Một cơn mưa ập xuống, cả xe ướt lóp ngóp. Đã thế xe lại bị sa lầy ở ngầm Ô-krôi, loay hoay mãi vẫn không thoát ra được. Mấy lần có xe tải của bộ đội Bạn chạy qua, chúng tôi nhảy ra chặn đường vẫy tay ra hiệu nhờ kéo giúp, nhưng họ vẫn chạy thẳng. Ông tài xế nhà ta nói với chúng tôi mà chẳng nhìn vào ai: “Không có chuyện ấy đâu, các ông ơi!”. Sao thế nhỉ? Chắc đây chỉ là hiện tượng cá biệt ở một vùng đặc biệt…

Cuối cùng thì anh tài xế cũng lùi lùi tiến tiến ra khỏi vũng lầy. Lại lên xe đi tiếp. Trời vẫn mưa nhưng không ào ạt xối xa như trước mà chỉ lây rây rả rích. Anh Nhất, cán bộ Ban tổ chức của Phòng chính trị sư đoàn có tấm ni-lon, bảo tôi chui vào che chung. Lắc lư trên đoạn đường còn lại, anh Nhất kể chuyện khát nước của lính Tình nguyện như để tôi bớt “khó chịu” vì ướt mưa và xe xóc. Anh bảo: nhiều chuyến hành quân bộ ròng rã ngày này qua ngày khác, giữa những cánh rừng mùa khô bụi đỏ rải một lớp trên mặt đất, ngập đến cổ chân. Những lúc ấy bớt được thứ gì trên người cho nhẹ là bớt, chẳng tiếc gì sất. Lương khô, pin đèn, đồ lưu niệm, nhu yếu phẩm dự phòng… thậm chí đến hộp thuốc đánh răng, chiếc bút máy, cái bật lửa… cũng vứt dần cho nhẹ người. Tuy nhiên có hai thứ không thể vứt được là vũ khí và bi đông nước uống.

Tôi đã được nghe, được đọc nhiều chuyện khát nước của bộ đội ta ở trong rừng, trên đảo, nhưng chuyện khát và nhất là kinh nghiệm “chống khát” của anh Nhất thì thật độc đáo: trước hết phải nhịn đái. Anh nào hành quân mà cứ vô tư “tè” thoải mái dọc đường thì chắc chắn sẽ bị khát trước tiên và khát nhiều nhất. Cúc áo cổ phải cài thật kín, càng nắng nóng càng phải cài chặt. Tất nhiên người sẽ vã mồ hôi, nhưng chỉ một lúc là thấy mát hơn hẳn mấy anh phong phanh cổ áo cho thoáng. Da thịt thấy mát mẻ, lấp dấp mồ hôi thì sẽ đỡ khát hơn. Nên nhớ là phải kết hợp thở bằng mũi. Há hốc mồm mà thở thì mau khô họng, nứt môi, háo nước. Ban đêm, tốt nhất là… trần như nhộng. Trải ni-lon xuống đất, căng màn chống muỗi mà ngủ dưới sao trời. Khuya, sương xuống và hơi ẩm trong đất bốc lên đọng thành nước trên tấm ni-lon, tuy không đủ để làm một ngụm nhưng lăn qua lăn lại trên đó thấy đã vô cùng, đỡ khát hẳn!

Hèn chi trong chiếc cặp tài liệu của Nhất lúc nào cũng thủ sẵn một tấm ni-lon và nhờ thói quen ấy mà chiều nay tôi được tá túc. Nhất là dân Nam Bộ thứ thiệt. Ba má anh tập kết hồi năm tư, sinh anh ở Thanh Hóa hay Hà Bắc gì đó tôi không nhớ rõ, nhưng nhớ chắc chắn là anh đã từng học chính qui ở trường Sĩ quan chính trị Bắc Ninh. Tốt nghiệp, anh được điều động về Quân khu 9, theo đúng nguyện vọng được về gần quê nhà của anh và gia đình. Có điều vì anh nói giọng Bắc nên trong “cơ cấu” đôi khi người ta vẫn “nhầm” anh là dân miền Bắc…
10.Sôm lia bo Pai-lin
Sáng 25-5-1989.

Ngày mai chúng tôi phải lên Bộ tư lệnh Mặt trận 979 để về nước. Mấy anh trong Phòng chính trị nói vui: “Bây giờ mình sang chiến đấu trầy trật gian khổ thế này, nhưng nay mai yên hàn rồi, sang Cam-pu-chia là thuộc diện được đi nước ngoài đấy, chưa chắc đã đến lượt bọn mình đâu. Mà đi được thì phải vi-da, hộ chiếu… phức tạp lắm!”. Tôi bảo: “Thế thì còn ngày cuối cùng, bọn này tranh thủ đi tham quan kho báu của Pai-lin nhé!”.

Có chữ “kho báu” là bởi từ một câu chuyện cổ tích tôi được nghe kể về vùng đất này như sau: ngày xưa, có một bác tiều phu đã ngược theo con suối Xăng-ke lên đây tìm kho báu theo lời báo mộng của thần linh. Bác ta đi mãi, đi mãi hết ngày này sang ngày khác nhưng chẳng thấy kho báu ở đâu cả. Thần lại báo mộng: muốn tìm được kho báu thì phải cúng lễ một con vật có bốn mắt. Muông thú họp nhau bàn cách giúp bác tiều phu và chúng đã nghĩ ra con vật có bốn mắt chính là con vật đang có mang một đứa con trong bụng. Một con khỉ cái đã tự nguyện hi sinh để giúp bác. Quả nhiên bác đã tìm thấy kho báu. Từ đó dân thập phương lũ lượt kéo về, cùng bác khai phá vùng đất giàu có, lập nên những phum sóc trù phú đông vui. Để tri ân vị cứu tinh của mình, dân làng đặt tên vùng đất của mình là “con vượn có mang”, gọi theo tiếng Phạn trong sách nhà chùa là Phì-linh. Dân bản địa không quen gọi theo tiếng Phạn, nên chệch thành Pai-lin. Pai-lin có xã Phlau-mia, tiếng Khơ-me là “con đường vàng”, con đường dẫn đến mỏ đá quý Ô-đa gần sát biên giới Thái Lan.

Anh Ký ở Phòng địch vận dẫn chúng tôi đi chơi chợ Phlau-mia. Xã còn nghèo nhưng chợ thì sầm uất đông vui, đúng là chợ “đường vàng”. Con đường 10B qua đây biến thành một đoạn phố hai bên la liệt hàng quán. Đủ thứ hàng thực phẩm, mỹ phẩm, dệt may, điện tử… chẳng thiếu thứ gì. Dân buôn bán ở đây chủ yếu là Việt kiều, Hoa kiều và Thái Lan. Chúng tôi xáp vào một cửa hàng có ba cô gái sàn sàn tuổi nhau, có vẻ như dân gốc Hoa, khá xinh, nhưng chỉ nói được bập bẹtiếng Việt. Trò chuyện với các cô bằng… điệu bộ cũng hay hay, lại còn chụp ảnh kỷ niệm với cả ba cô nữa, nhưng quên không hỏi tên gì. Cửa hàng bán phở Nam Vang, có bia chai, rượu trắng, nước ngọt, nhạc cát-xét chạy điện ắc-qui và đá lạnh ủ trong trấu, không rõ lấy ở đâu về. Bà chủ là một người Khơ-me chính gốc, nhưng nói tiếng Việt khá sõi. Bà bảo: mai mốt bộ đội Việt Nam rút hết, không biết bà con có yên ổn làm ăn buôn bán như bây giờ không? Trong lúc anh bạn đồng nghiệp của tôi ở Phòng thời sự quốc tế đang nói chuyện “chính trị” với bà chủ thì tôi tranh thủ “học ngoại ngữ” với mấy cô gái: “Xóc-xờ-bai” là chúc lên đường mạnh khoẻ!, “Sôm-lia-bo” là hẹn ngày gặp lại!, “Đắc-khắc-vân-vinh” là nhất định sẽ quay trở lại…

Trụ sở Uỷ ban xã cũng nằm sát mặt đường, ngay cuối chợ. Không có kế hoạch làm việc nhưng mấy anh em vẫn ghé vào thăm chơi. Cán bộ xã cởi trần ngồi bên bàn. Dân quân kẻ nằm người ngồi, súng ống dựng đầy nhà. Không biết ở những vùng giáp ranh của miền Nam nước ta hồi chiến tranh có như thế này không nhỉ? Ngay trước cửa Uỷ ban có một cái ba-ri-e làm bằng gỗ chắn ngang đường. Xe bộ đội Việt Nam thì không thu tiền, nhưng xe “quốc nội” thì cả ô-tô lẫn xe máy đều phải nộp tiền, đôi khi còn bị khám xét. Không khí ở đây vì thế có vẻ căng thẳng, khác hẳn với không khí ở mấy dãy hàng quán.

Không biết anh Ký liên hệ cách nào mà đến bữa, ghé vào một gia đình cơ sở đã thấy dọn sẵn cơm trưa. Má Phon-la chủ nhà không nói được tiếng Việt. Cô Chăn-thu con gái của má cũng thế, nhưng anh con rể tương lai thì nói tiếng Việt khá sõi. Nghe nói anh này trước cũng làm du kích, nhưng nay thì đi đào đá quý ở Ô-đa. Cô Chăn-thu đang học y tá trên huyện Pai-lin, mấy hôm nay được nghỉ nên anh cưỡi chiếc hon-đa đỏ chót về thăm. Cũng may có anh ngồi tiếp cơm khách. Bữa cơm khá tinh tươm sạch sẽ, rượu trắng thốt nốt rất ngon, nhưng món bò-hóc thì quả là rất khó xơi. Vậy mà chúng tôi vẫn khen lấy khen để, rất nhiệt tình…

Buổi chiều trở về cơ quan sư đoàn bộ vẫn trên chiếc xe tải ban sáng. Lúc đi ngang quán của mấy cô gái chụp ảnh chung ở chợ Phlau-mia, chúng tôi vẫy tay và kêu: Xôm-lia-bo! Xôm-lia-bo Pai-lin!…

Cả ba cô cùng nhào hẳn ra đường, vẫy rối rít:

- Xóc-xờ-bai! Xôm-lia-bo!…

Xe đã qua khỏi chợ, tôi vẫn cố hét thật to:

- Bát, đắc-khắc-vân-vinh!…

Không rõ các cô có biết đây là mùa hè cuối cùng có mặt những người lính Tình nguyện Việt Nam trên đất nước của các cô?

Phnôm-pênh, tháng 5-1999
Hà Nội, cuối tháng 7-2008
MAI NAM THẮNG