(Tiếp theo số trước)

Ở Tây Nguyên-Liên khu 5, sau khi tháo chạy khỏi Kon Tum và rút bớt lực lượng từ vùng tự do đồng bằng lên Tây Nguyên, địch tổ chức thành 2 khối lực lượng mạnh:

- Khối thứ nhất ở Tây Nguyên có 25 tiểu đoàn, gồm 5 binh đoàn cơ động, tập trung bảo vệ Plei-cu và đầu cầu An Khê. Ở chung quanh Plei-cu có 9 tiểu đoàn nòng cốt là binh đoàn 100, cố thủ giữa Plei-cu -Đắc Đoa. Trên đường 9-An Khê cũng có 9 tiểu đoàn nòng cốt là hai binh đoàn 11 và 21, tổ chức tuyến ngăn chặn "khóa chặt" đường 19 không cho chủ lực ta vượt qua đường tấn công vào Buôn Ma Thuột, Đắc Lắc. Còn hai binh đoàn vốn của bọn ngụy trấn giữ Tây Nguyên (BM41 và 42) bố trí giữ tam giác Măng Giang-Cheo Reo-Biển Hồ, vừa làm lực lượng dự bị và có nhiệm vụ tăng cường ngăn chặn ta tiến về nam Tây Nguyên.

- Khối thứ hai ở đồng bằng còn 10 tiểu đoàn, có binh đoàn số 10 giữ Tuy Hòa và các vị trí quan trọng khác như ngã ba Chí Thạnh, Sông Cầu, La Hai. Còn ở phía sau, khu vực Ninh Hòa, Nha Trang có 6 tiểu đoàn làm dự bị.

Ngay khi địch mở cuộc tấn công ra Phú Yên (20-1-1954), tuy ở phía trước nhưng Anh Văn vẫn đề nghị Bộ Chính trị có chỉ thị động viên kịp thời Đảng bộ và nhân dân Liên khu 5, giữ vững quyết tâm lên bắc Tây Nguyên: "Kiên quyết tập trung lực lượng thực hiện kế hoạch đã định" và nhắc nhở, động viên: "Hiện nay Liên khu 5 phải nắm vững việc đánh giặc là nhiệm vụ trung tâm thứ nhất. Tất cả các công tác khác phải phục vụ cho việc đánh giặc". Chỉ thị do đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh ký(1).

Sau khi Kon Tum được giải phóng, Anh Văn thường xuyên nhắc Liên khu 5 tổ chức nhiều trận tấn công vào thị xã Plei-cu bằng nhiều lực lượng, nhiều quy mô, đồng thời tổ chức đánh giao thông trên đường 19, quyết cắt đường ở nhiều khúc cũng bằng nhiều lực lượng và nhiều quy mô. Làm được như vậy liên tục thì hạn chế rất nhiều khả năng mở tiếp đợt 2 của kế hoạch Át-lăng của địch. Không chỉ chủ lực đánh nhiều trận tốt mà lực lượng bộ đội, đặc biệt là du kích vùng sau lưng địch cũng có nhiều trận đánh rất tốt, tiêu hao, tiêu diệt nhiều đoàn vận chuyển tiếp tế, nhiều kho tàng vũ khí, lương thực, xăng dầu... Không chỉ tác chiến mà ta còn xây dựng thêm nhiều tiểu đoàn tập trung và đại đội độc lập. Riêng hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi xây dựng thêm 2 tiểu đoàn tập trung và 10 đại đội độc lập. Đặc biệt chỉ mới qua 30 ngày chiến đấu, Liên khu 5 đã xây dựng được trung đoàn chủ lực thứ 3: trung đoàn 96 và một tiểu đoàn độc lập 375. Như vậy chủ lực không những không giảm sút mà còn tăng 25% so với lúc đầu chiến đấu. Trung đoàn 96 có tiểu đoàn 79 thuộc trung đoàn 108 được thành lập từ năm 1948, có nhiều kinh nghiệm còn có tiểu đoàn 30, 40 gồm các đại đội địa phương của các tỉnh rút lên. Tin Liên khu 5 lập thêm trung đoàn chủ lực mới làm Anh Văn rất vui. Vừa điện biểu dương thành tích chiến đấu của quân-dân Liên khu 5 qua một tháng chiến đấu, vừa khen ngợi Bộ tư lệnh Liên khu 5 đã xây dựng phát triển lực lượng chiến đấu ngay trong chiến đấu. Anh nhấn mạnh: đó là một kinh nghiệm rất hay.

Bị đánh đau khắp nơi, cả phía trước và phía sau. Phía trước thì bị chủ lực ta đánh những đòn đau, còn phía sau thì lực lượng địa phương thực hiện những trận rất hiểm, nhưng Bô-pho và Na-va chủ quan cho rằng cuộc tiến công Đông Xuân 1953-1954 của ta đã gần kết thúc, đã đến lúc chúng có thể phản kích giành lại thế chủ động. Cuối tháng 2-1954, Na-va điều binh đoàn cơ động dù vào tham gia bước thứ 2 cuộc hành quân Át-lăng tiến chiếm toàn bộ tỉnh Bình Định cũng từ ba hướng: 2 binh đoàn 41, 42 từ Phú Yên vượt qua đèo Cù Mông-Diêu Trì, phía đông sáng 12-3-1954, binh đoàn số 10 đổ bộ lên Quy Nhơn và phía tây có 4 binh đoàn: 100, 11, 21 và dù từ An Khê kéo ra chiếm đầu cầu Thượng An, chuẩn bị đánh xuống Phú Phong, Bình Định.

Đại họa cho Na-va. Vừa đổ bộ lên Quy Nhơn ngày 12-3 thì một ngày sau, chủ lực ta bắt đầu tấn công Điện Biên Phủ. Chỉ 5 ngày chiến đấu quyết liệt, quân ta đã tiêu diệt phân khu bắc của địch, gồm những cụm cứ điểm mạnh nhất, cứng nhất: Him Lam, Độc Lập. Chiến thắng Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo làm nức lòng quân-dân ta, gây hoang mang tinh thần chiến đấu của sĩ quan và binh lính Pháp tại Điện Biên Phủ. Thật đáng tự hào cho quân-dân Liên khu 5, dưới sự lãnh đạo thiên tài của Bộ Chính trị, của Bác, được sự chỉ đạo sâu sắc của Thường vụ Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh, đã nỗ lực phi thường phối hợp chặt chẽ với chiến trường chính. Ngày 26-1, ta chuyển phương châm tác chiến "đánh chắc tiến chắc" ở Điện Biên Phủ thì đúng 26-1, quân dân Liên khu 5 khắc phục muôn vàn khó khăn, mở đầu thắng lợi ở đông bắc Kon Tum, sau đó giải phóng toàn bộ tỉnh Kon Tum. Khi Na-va chủ quan, cố gắng giành chủ động đổ bộ lên Quy Nhơn thì cũng chỉ một ngày sau Điện Biên Phủ nổ súng. Ta đã buộc Na-va lại phải tạm dừng tấn công ở đồng bằng (vùng Quy Nhơn), hối hả điều binh đoàn dù ở An Khê ra Hà Nội vào ngày 16-3-1954, nhưng vẫn không thoát khỏi cảnh bị động đối phó.

Lúc này, tình hình chiến sự ở chiến trường chính Điện Biên Phủ đang diễn ra dồn dập. Tôi chỉ được báo cáo tình hình chiến trường lên Đại tướng vào lúc Điện Biên Phủ thật yên tĩnh một chút, thường là rất khuya, có khi là 3-4 giờ sáng. Dẫu vào lúc nào, anh Văn cũng rất mực bình tĩnh, lắng nghe tôi trình bày. Anh chỉ thị cho Liên khu 5 phải tiếp tục uy hiếp các thị xã, thị trấn quan trọng như Plei-cu, Đắc Đoa, An Khê, phải đánh phá liên tục đường 19, cắt thành nhiều đoạn, tổ chức những phân đội chuyên trách đánh phá thường xuyên. Đặc biệt phải đưa bằng được một trung đoàn qua nam đường 19, trong tam giác Măng Giang-Cheo Reo-Biển Hồ vừa uy hiếp Plei-cu từ phía nam, phối hợp đánh phá đường 19 từ phía nam. Anh nhắc anh Chánh cố đưa được một trung đoàn qua nam đường. Anh nhắc lại kinh nghiệm của trung đoàn 803 qua nam Kon Tum, bám đường 14, nếu khó khăn về lương thực chưa đưa được cả trung đoàn thì lần lượt từng tiểu đoàn. Lúc này đem được một tiểu đoàn bám đường 14 đoạn nam Plei-cu đến bắc Buôn Ma Thuột là cực kỳ quan trọng. Đồng thời chỉ thị cho chiến trường phía sau lưng địch tích cực phối hợp. Thực hiện chỉ thị của Đại tướng-Tổng tư lệnh, Liên khu 5 đã điều toàn bộ Trung đoàn 803 vào đứng chân ở cao nguyên Trà Khê.

Có thể nói qua một tháng chiến đấu, ba thứ quân của Liên khu 5 đã có sự trưởng thành nhanh, vượt trội, đặc biệt là có đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung cũng như dân quân du kích ở 3 tỉnh vùng tự do nắm được quy luật hành động của địch, điểm mạnh yếu của quân thù nên có những trận đánh có chất lượng khá cao. Trung đoàn 803 tập kích binh đoàn 100 tại Plây Rinh vào đêm 20-3. Sau hơn 2 giờ chiến đấu đã diệt hơn 600 lính Âu Phi, phá hủy nhiều xe pháo, đánh thiệt hại nặng binh đoàn 100. Tiếp theo, Trung đoàn 803 được lệnh nhanh chóng về đông Cheo Reo, nhằm đánh vỡ tuyến phòng thủ Cheo Reo đi Bà Lá trên đường số 7 của địch. Trong vòng 12 ngày chiến đấu, ta đánh được 4 trận lớn: vận động tấn công ở Trà Khê (10-4), tập kích buôn Ma Bếp (12-4), cường tập vị trí Ai Nu (19-4), vận động phục kích Kà Ting (21-4), diệt gọn 6 đại đội địch, phá hủy 24 xe cơ giới. Tuyến phòng ngự từ Cheo Reo-Bà Lá của địch bị sụp đổ.

Trong lúc đó, trên đường 19, dẫu địch đã chiếm lại được Thượng An cũng buộc phải dừng lại vì binh đoàn dù đã trở về Hà Nội, binh đoàn 100 bị đánh nhiều trận, phải củng cố. Rõ ràng khả năng nối liền đường 19 của địch không còn, nên khả năng từ Thượng An đánh xuống Phú Phong, chiếm toàn bộ tỉnh Bình Định cũng không còn. Bộ tư lệnh Liên khu 5 chủ trương tập trung hai trung đoàn 108 và 96 kiên quyết tiêu diệt cứ điểm Thượng An, dập tắt mưu đồ đánh xuống Phú Phong của địch. Sau trận phục kích trên đường 19, tây Thượng An, ta diệt gọn 2 đại đội của tiểu đoàn 17 ngụy. Bọn sống sót chạy vào rừng, có cả tên tiểu đoàn trưởng. Bọn còn lại ở Thượng An kêu cứu, nếu không "Việt Minh tiến công thì sẽ đầu hàng". Nắm được tình hình địch, anh Chánh ra lệnh phải đánh ngay, dẫu có mờ sáng, hoặc ban ngày cũng phải đánh. Đúng 4 giờ 30 phút, nổ súng, chỉ sau 15 phút ta diệt gọn 2 đại đội ở mỏm đồi dưới. Khi đánh lên đồi cao, địch chống cự quyết liệt nhưng nhờ có đại đội bố trí sẵn phía sau đồi cao chủ động phối hợp nên cũng nhanh chóng dứt điểm.

Thượng An bị diệt, chiến thuật phòng ngự bằng cứ điểm tiểu đoàn tăng cường mất hiệu quả, cần tổ chức các cứ điểm quy mô lớn hơn, nhưng địch lại thiếu lực lượng nghiêm trọng. Tiếp đó cả 2 trung đoàn 108 và 96 được lệnh Bộ tư lệnh mặt trận bám sát đường 19, liên tục đánh địch, gần như cả tháng 4-1954. Nhiều đoàn xe của địch bị diệt, ít là 6 xe, nhiều là 25-30 xe... Các khu vực Hà Tam, chân đèo Măng Giang, tây cầu A-dung là những mồ chôn đầy xác chết và xe pháo của địch. Sau đó, địch phải dùng không quân tiếp tế cho An Khê vì đường 19 bị ta hoàn toàn khống chế.

Cũng do 40 tiểu đoàn cơ động của Pháp bị đánh tơi tả trên đường 19, nên ở Quy Nhơn, Tuy Hòa, nhân dân và ba thứ quân của các tỉnh sau lưng địch lợi dụng thời cơ thuận lợi vùng lên tấn công liên tục, mãnh liệt.

Ở Quảng Nam, chỉ 3 tháng đầu năm 1954, ta đã diệt và bức rút 48 cứ điểm, tháp canh dọc sông Cẩm Lệ, bắc sông Bà Rén. Tháng 4-1954, ta lại san bằng một số cứ điểm mạnh của địch sát đông nam thành phố Đà Nẵng, kể cả việc đánh hỏng nặng cầu Đờ Lát bắc qua sông Hàn. Các cứ điểm bị diệt là: Non Nước, Tân Thái, Cổ Mân, Mỹ Thị. Trên đèo Hải Vân, đội công binh chuyên đánh đèo, đánh đổ 3 đoàn xe lửa quân sự, làm tê liệt đường sắt Huế-Đà Nẵng trong nhiều ngày.

Ở Khánh Hòa, chỉ trong tháng 2 và 3-1954, ta đã diệt gần 44 cứ điểm, nhiều tháp canh, diệt gần 1.800 tên. Qua tháng 4, Khánh Hòa tập trung lực lượng đánh xuống vùng sâu, đông quốc lộ 1 và vào Nha Trang. Kết quả ta diệt một chi khu (Cần Đức), một trại huấn luyện (Suối Đầu), 5 đồn (Am Chùa, Võ Cạnh, Cẩm Sơn, Ngũ Mỹ, Lạc An), bức rút 2 đồn (Tân Mỹ, Phú Sơn), các đồn Đại Điền Tây, Thanh Minh, Ngũ Láng binh lính địch đào ngũ tập thể. Cuối tháng 5-1954, ta tập kích thị trấn Ninh Hòa (bắc tỉnh Khánh Hòa), phá nhà lao, giải phóng 600 cán bộ, chiến sĩ và nhiều người yêu nước bị địch giam giữ.

Ở Bình Thuận, Lâm Đồng, bộ đội địa phương, dân quân du kích tại chỗ cùng Trung đoàn chủ lực 812 mở chiến dịch nhỏ trên khu vực giáp ranh của hai tỉnh. Ta diệt chi khu Tánh Linh và các cứ điểm: Gia Bát, La Giày, Suối Kiệt, Đà Oai, Di Linh. Huyện Tánh Linh được hoàn toàn giải phóng. Một vùng căn cứ rộng nối liền tây bắc Bình Thuận, Lâm Đồng với miền Đông Nam Bộ gần 15 nghìn dân, được hình thành. Phối hợp với Bình Thuận, quân dân Lâm Đồng diệt hai cứ điểm (Lút Xa và Tà Xi) mở rộng địa bàn ra toàn huyện Di Linh, tiếp theo phát triển qua các vùng Loan -Tà In-Tà Hoan. Trên đà thắng lợi, Bình Thuận tiêu diệt chi khu Lương Sơn, cứ điểm Duồng, đánh thiệt hại nặng chi khu Lương Sơn, phá tan hệ thống đồn bót án ngữ phía bắc căn cứ của toàn tỉnh ở Lê Hồng Phong.

(Còn nữa)

(1) Sách đã dẫn, tr.260

Trung tướng-PGS LÊ HỮU ĐỨC