Kỳ II: Nhà thơ trong ký ức của mẹ
QĐND - “Giữa đêm khuya thanh vắng, trong cái lạnh như cắt da, cắt thịt vào cuối năm 1948, tôi đặt Chính và Loan vào hai chiếc thúng ở hai bên đầu gánh, lót ít rơm giữ ấm cho con, mình đeo ít gạo sau lưng, mò mẫm trong đêm ngược sông Lô lên với chồng...” - Đó là một trong những ký ức mà bà Lê Thị Oanh, mẹ liệt sĩ Hoàng Minh Chính chia sẻ với chúng tôi.
Gánh con lên Việt Bắc
Tôi tiếp tục theo chân anh Hoàng Quốc Vinh ngược dòng sông Lô về miền trung du Tiên Phú, Phù Ninh, Phú Thọ để được nghe mẹ Lê Thị Oanh kể về tuổi thơ của nhà thơ Hoàng Minh Chính.
Khi chúng tôi lên đến nhà, biết hôm nay gia đình có khách nên mẹ Oanh ra tận cổng đứng đón. Năm nay, mẹ đã 94 tuổi, cho dù lưng đã còng, đôi mắt đã mờ và đôi chân đi lại khó khăn, nhưng tiếng của mẹ vẫn dõng dạc lắm! Vừa gặp chúng tôi, mẹ Oanh bộc bạch: “Lẽ ra tôi cũng đi theo cụ ông rồi, nhưng vì thằng Chính chưa về nên tôi phải sống để chờ nó”.
Hôm ấy, tôi ngồi trò chuyện cả buổi với mẹ Oanh dưới tán cây vải ở vườn. Mẹ bảo: “Đây là 3 cây vải Chính nó trồng trước lúc lên đường nhập ngũ. Hằng năm cây đều cho trái xum xuê, chỉ tiếc nó không còn sống mà hưởng”.
 |
Mẹ Oanh cùng anh Hoàng Quốc Vinh bên gốc vải nhà thơ trồng trước lúc lên đường nhập ngũ. |
Nói đoạn mẹ chậm rãi đi vào nhà, lấy ra chiếc cặp nhỏ màu đen. Mẹ dùng khăn cẩn thận lau những lớp bụi bám quanh chiếc hộp và mở ra cho chúng tôi xem: Một cuốn sổ nhật ký, những bản thảo thơ và thư. Mẹ giải thích: "Đây là những di vật của Chính gửi về trước lúc hy sinh". Nói tới đó, tôi thấy mắt mẹ đỏ hoe, rồi những giọt nước mắt còn sót lại cứ tràn xuống những nếp nhăn gồ ghề trên khuôn mặt. Cứ thế, bao nhiêu ký ức về người con ham học, ham thơ, siêng năng, chịu khó ngày nào của mẹ hiện về nguyên vẹn.
Ngày ấy, mẹ không còn nhớ rõ, chỉ biết vào cuối năm 1948, chồng đi theo cách mạng lên chiến khu Việt Bắc, còn mẹ và chị Loan (5 tuổi, con đầu), anh Chính (4 tuổi, thứ hai) ở quê nhà Yên Thành, Ý Yên, Nam Hà (cũ). Khi giặc Pháp kéo đến quê nhà, mẹ nhận được tin chồng: “Em và 2 con lên ngay Vĩnh Phú. Nếu có chết thì cả gia đình cùng chết”. Vậy là vào giữa đêm khuya thanh vắng, trong cái lạnh như cắt da, cắt thịt, mẹ Oanh đặt anh Chính và chị Loan vào hai chiếc thúng ở hai bên đầu gánh, lót ít rơm giữ ấm cho con, mình đeo ít gạo sau lưng, mò mẫm trong đêm ngược sông Lô lên với chồng… Kể từ đó, tuổi thơ của Minh Chính gắn liền với miền trung du này và mảnh đất ấy nghiễm nhiên trở thành quê hương thứ hai của nhà thơ.
Lên Vĩnh Phú, hai năm sau Minh Chính bước vào lớp 1. Vì còn nhỏ nên thời gian đầu, hết chị Loan rồi đến mẹ thay nhau đưa Minh Chính tới lớp. Thế nhưng có những hôm, cả chị và mẹ đều bận lên nương, vậy là một mình Minh Chính lặn lội băng qua rừng cọ, đồi chè đến lớp học. Những hình ảnh ấy đã được anh tái hiện trong bài thơ “Đi học” khi anh mới 15 tuổi: “Hôm qua em tới trường/ Mẹ dắt tay từng bước/ Hôm nay mẹ lên nương/ Một mình em tới lớp…”. Bên dưới bài thơ có ghi: Kỷ niệm thăm Thản. Thản ở đây là Trạm Thản, một vùng đồi cọ có địa thế rất đẹp và gần nhà anh. Thường vào những ngày nghỉ, anh lại từ huyện về và thích một mình lên đồi, lang thang dưới bóng cọ sau khi đã giúp mẹ việc đồng áng.
Đêm lạc mẹ…
Cứ tưởng lên trên Việt Bắc, gia đình mẹ Oanh sẽ được yên ổn. Thế nhưng giặc Pháp đâu có để cho gia đình bé nhỏ của mẹ yên. Không biết bao lần mẹ ôm các con chạy vào rừng trốn giặc. Trong một lần như vậy mẹ đã để lạc Minh Chính. Nhớ lại chuyện xưa, mẹ kể: “Khi giặc Pháp tấn công vào Phù Ninh, mẹ bồng các con chạy trốn cùng dân làng vào rừng. Vì con nhỏ hay khóc, mẹ phải dỗ dành nên một số người nói: Ẩn nấp với cô không khéo chúng tôi chết oan. Vậy là họ đi nơi khác và mẹ không biết Minh Chính cũng đi theo. Tối về nhà, mẹ đi khắp làng trên, xóm dưới để hỏi thăm tin tức của Minh Chính nhưng không ai biết, đến mãi tận khuya nó mới tìm về nhà... ”.
Về nhà mẹ hỏi chuyện, thì ra khi Minh Chính quay về ẩn nấp gần làng để khi giặc Tây bỏ đi sẽ lấy ít lương thực đem vào cho mẹ. Cũng may lần ấy giặc Tây không phát hiện ra anh, nếu không thì... Nhưng cũng chính nhờ sự gan dạ ấy mà Minh Chính đã được tận mắt chứng kiến lũ giặc Tây bắn giết gia súc, đốt phá nhà cửa của dân làng. Điều đó càng làm tăng thêm lòng căm thù giặc sâu sắc trong trái tim người thanh niên trẻ này.
 |
Bản thảo bài thơ "Đi học" được gia đình nhà thơ giữ gìn cẩn thận. |
Lên cấp 2, Minh Chính xuống trung tâm huyện theo học. Ngày nghỉ, anh về làm việc ở hợp tác xã để lấy công điểm cho gia đình và giúp mẹ trông nom các em. Nói đến đây, mẹ chia sẻ với tôi: “Nó là đứa chịu khó, chỉ biết làm hết sức mình. Đi làm công lấy điểm, tuy còn nhỏ nhưng gánh lúa đầy như người lớn. Không chỉ thế nó còn được mệnh danh là người cuốc đất giỏi thứ hai của xã. Mẹ nhớ nhất hình ảnh nó đi làm, gánh hai đứa em ra đồng để tiện việc trông nom. Đến khi về, nhìn 4 anh em, hai đứa ngồi hai bên gánh, một đứa đi sau vác cuốc mà mẹ không cầm được nước mắt”.
Có lẽ, chính những tháng năm lam lũ này đã tôi luyện cho anh ý chí, sự can trường nên trong suốt thời gian quần nhau với quân thù ngoài mặt trận sau này, dường như anh không biết mệt mỏi bao giờ!
Trở lại với những vần thơ anh viết từ khi còn nhỏ, những nét chấm phá đầu đời đã cho thấy rõ tài năng về thơ ca của Minh Chính. Một trong những bài thơ còn lại, được viết sớm nhất là bài thơ “Viết thư cho bà” năm 1955, khi anh mới 11 tuổi. Bài thơ thật giản dị nhưng cũng rất cảm động: “Hòa bình vừa mới hôm qua/ Hôm nay viết thư cho bà/ Chữ viết còn run nét bút/ Cháu gửi bà ở phương xa…”. Đến những vần thơ mộc mạc như: “Hôm qua em bị điểm hai/ Tại vì em chẳng thuộc bài đêm qua…”. Tôi chợt nghĩ rằng: Có lẽ không chỉ thừa hưởng những giá trị truyền thống hiếu học của gia đình, mà chính mảnh đất này, thiên nhiên này với màu vàng của lúa, màu xanh của cỏ cây, hòa quyện cùng tình người nơi đây đã vun đắp cho tâm hồn thơ trong sáng của Minh Chính.
Tài năng thơ phú của Minh Chính được nhiều người biết đến khi anh xuống học ở Trường cấp 3 Hùng Vương, Việt Trì, Vĩnh Phú (1961-1963). Chính tại nơi đây, qua những "Ngày thơ” do nhà trường tổ chức, thầy cô, bạn bè đã biết thêm nhiều về Minh Chính qua một số bài thơ như: Lạc mẹ, Tập làm thơ… Và cũng chính nơi đây, Minh Chính đã thương thầm, trộm nhớ cô nữ sinh Cù Thị Kim Hợp. Chính Kim Hợp sau này đã trở thành "nàng thơ" trong hầu hết tác phẩm của anh mà chúng tôi đã kể ở phần trước.
Cuối năm 1963, khi đang chuẩn bị lên lớp 10, Hoàng Minh Chính viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Trước lúc lên đường, anh về thăm mẹ và các em, đem theo 3 cây vải người bạn tặng để trồng, hy vọng sau này trở về sẽ được hái quả.
Kể về ngày anh lên đường nhập ngũ, mẹ Oanh bồi hồi: “Sáng sớm hôm ấy, khi các anh trong xã kiểm tra công tác chuẩn bị trước lúc lên đường thì nó nói với các anh cán bộ xã: Trưa mới đi mà! Để tôi cuốc ít ruộng còn lại cho mẹ rồi lên đường vẫn chưa muộn. Các anh liền can ngăn: Trưa lên đường rồi, ở nhà nghỉ ngơi, thăm hỏi bà con xóm làng! Sự nghiệp cách mạng còn dài, đuổi quân thù rồi về xây dựng quê hương vẫn chưa muộn. Cái thằng! Chuyện đi đánh giặc mà nó cứ xem như đi làm đồng ấy!”.
------------
Kỳ 1: Gặp người con gái trong thơ Minh Chính
Kỳ III: Dang dở những ước mơ
Bài và ảnh: Duy Thành