 |
Ba người con gái gia đình Biệt động Phan Văn Bảy (từ trái sang): Phan Thị Hồng (bị cưa chân 6 lần), Phan Thị Thu (nữ giao liên), Phan Thị Hạnh trong ngày họp mặt quân báo 22-12-2007. |
Nhiều người trẻ tuổi hôm nay khi đọc những trang sử bi tráng Mậu Thân 1968 đều thốt lên câu hỏi:
“Làm thế nào vũ khí được đưa về thành phố để ngày N giờ G, các đội Biệt động đã có sẵn hàng tấn vũ khí, thuốc nổ tấn công vào các mục tiêu trọng yếu của địch đêm mùng một rạng sáng mùng 2 Tết Mậu Thân?”. Để trả lời câu hỏi đó, xin hãy quay về với tên gọi đơn vị F100 mà những chiến sĩ biệt động đã gắn bó máu thịt, tự hào về một thời kỳ lịch sử đã qua. Để chuẩn bị cho “Kế hoạch X” về Tổng công kích-tổng khởi nghĩa, Khu ủy và quân khu quyết định thành lập Đoàn Biệt động F100- một lượng xung kích nhằm đảm đương nhiệm vụ chiến lược và chiến thuật đánh vào cơ quan đầu não địch, tạo những quả đấm lớn trong nội đô. Và tôi đi gặp những người chỉ huy, phụ trách lực lượng Biệt động Sài Gòn…
Ông Nguyễn Đức Hùng, chỉ huy lực lượng Biệt động Sài Gòn nói rất rõ về tổ chức của lực lượng Biệt động. Từ tháng 5-1963 đến trước Mậu Thân diễn ra, F100 đã có được 9 đội Biệt động; mỗi đội từ 15-20 cán bộ, chiến sĩ; 3 đội đặc công- biệt động ven đô hoạt động ở khu vực Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè và hai đội công tác bảo đảm A20 (phụ trách vận chuyển vũ khí về nội thành) và A30 (tổ chức đường dây giao liên ra vào thành phố, xây dựng cơ sở, hầm bí mật chứa vũ khí và ém quân…). Công việc khó khăn, phức tạp và muôn vàn nguy hiểm này được lực lượng bảo đảm thực hiện liên tục trong nhiều năm, nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chiến đấu thường xuyên và chiến luợc lâu dài. Năm 1967, chuẩn bị cho một “thời cơ mới”, các đơn vị bảo đảm được củng cố. Ban chỉ huy gồm Ngô Thanh Vân (Ba Đen)- Đội trưởng, phụ trách chung, chủ yếu bộ phận căn cứ. Ông Nguyễn Văn Trí (Hai Trí)- Phụ trách công tác Đảng ở nội thành (nhờ vai trò hoạt động hợp pháp). Vào giữa năm 1967, Quân khu chỉ đạo cho cả hai đơn vị tập trung vào nội thành. Đơn vị A20 được đổi thành J8, A30 đổi thành J9 (cụm). Cho đến trước khi Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân diễn ra, F100 là một đơn vị mạnh, tập trung gồm 12 đội chiến đấu và hai đội đảm bảo cơ sở vật chất, sẵn sàng làm nhiệm vụ “quả đấm” khi thời cơ mới đã xuất hiện.
Để Biệt động F100 thực hiện các “quả đấm”, các đơn vị bảo đảm đóng vai trò vô cùng quan trọng. Họ là ai? Họ làm gì? Tại sao họ gan dạ đến như vậy? Họ có thật không?... Sẽ có nhiều dấu hỏi hiện ra. Và tôi đoán chắc, trong các buổi giao lưu, họ sẽ nhận được nhiều câu hỏi tại sao đầy ngưỡng mộ chân thành, vô cùng thú vị dành cho họ. Họ sẽ được giải thích nhiều về vai trò, hoạt động của những cơ sở giấu ém vũ khí. Họ là những chiến sĩ thầm lặng nhưng biết chiến đấu bền bỉ, mưu trí, dũng cảm. Họ là những chiến sĩ kiên trì, có lòng yêu nước nồng nàn, một tinh thần gang thép. Tôi cũng là người thế hệ lớn lên sau chiến tranh, tôi cũng luôn tự hỏi, tại sao Biệt động Sài Gòn có một lực lượng kỳ lạ như vậy, anh hùng như vậy, độc đáo đến vậy? Cầm trong tay một bản danh sách, tôi đi tìm lại những nhân chứng đã làm nên những kho vũ khí lịch sử trong Mậu Thân 1968. Càng đi, càng gặp, tôi càng ngạc nhiên thú vị, càng ngưỡng mộ và càng thấy “khó tin” vào lòng dũng cảm, tài trí, ý chí gang thép của những chiến sĩ thầm lặng. Nhưng dù “khó tin” đến mấy, chúng ta vẫn phải tin vì đó là sự thật, một sự thật diễn ra như chính tự thân cuộc sống mà Sài Gòn Mậu Thân 1968 đã ghi vào lịch sử…
Từ các bàn đạp trung chuyển và vùng ven, trên các trục hành lang vận chuyển công khai, vượt qua hệ thống kiểm soát dày đặc của địch, với tài ngụy trang khéo léo, sự năng động, sáng tạo, dũng cảm; lực lượng bảo đảm Biệt động Sài Gòn đã vận chuyển gần 10 tấn thuốc nổ, súng đạn, phương tiện chiến tranh vào ém đều khắp 13 cơ sở gần mục tiêu đầu não địch trong nội thành. Chỉ trong thời gian 3 năm, từ 1965-1968; lực lượng bảo đảm của Biệt động Sài Gòn đã xây dựng được hàng loạt các kho vũ khí, đặc biệt có các kho phục vụ cho các trận đánh vào các mục tiêu đầu não của địch trong Mậu Thân 1968 như sau:
Kho vũ khí đánh vào mục tiêu Bộ Tổng tham mưu ngụy
Kho vũ khí tại số nhà 246/25 đường Nguyễn Huỳnh Đức (nay là đường Huỳnh Văn Bánh, quận Phú Nhuận) do nữ đồng chí Bùi Thị Lý, sinh năm 1918 (thường gọi là Hai) tham gia xây dựng và giữ kho. Bà tham gia lực lượng bảo đảm của Biệt động Sài Gòn từ năm 1964. Nhà ở 58 Bàn Cờ, bà đi lên Phú Nhuận mua một căn nhà gần đường ray xe lửa, trong xóm lao động. Bà giả làm người mua bán đồ hàng bông như khoai củ, cà chua, dưa leo… Khi có người trong khu ra, đào hầm bà đóng chặt cửa. Số đất mới, nửa đêm bà đem ra đổ ngoài đường rầy xe lửa. Để hợp pháp đem súng đạn vào nhà, bà gánh một đầu là đứa cháu gái mới lên hai, một đầu là súng đạn được phủ lên lớp cà chua, dưa leo… Sau Mậu Thân đợt 2, bà trinh sát chiến trường, bị bắn vào vai ở Chợ Lớn. Bà đi vào chiến khu, đến Tây Ninh bị địch bắt. Bà vẫn kiên cường vượt qua những cực hình tra tấn của địch, vẫn giữ vững bí mật cơ sở. Năm 1972, bà ra tù, sức khỏe bị ảnh hưởng nặng nề sau những năm sống trong tù ngục. Bà mất năm 1994 vì bệnh tim. Hiện nay, con gái bà là Nguyễn Thị Liên Hoa, Nguyễn Thị Bạch Tuyết sống tại ngôi nhà 58 Bàn Cờ, quận 3, TP Hồ Chí Minh. Kho vũ khí này ngày nay không còn nữa.
Kho vũ khí tại số nhà 248/27 Trương Minh Ký (nay là đường Lê Văn Sĩ) do ông Phan Văn Bảy “làm nghề thợ may” xây dựng. Hầm xây xong, sợ lộ, ông được điều vào chiến khu. Sau đó, ông giao hầm cho con gái là bà Phan Thị Thúy trông coi. Bà Thúy là con ông Phan Văn Bảy và bà Võ Thị Sự, có bốn người con thoát ly vào căn cứ Củ Chi. Năm 1965, chồng bà Thúy đang là công nhân cũng rời Sài Gòn vào căn cứ tham gia cách mạng. Theo sự vận động của cha, bà Thúy đang sống với mẹ chồng, có con nhỏ xin phép “ra riêng”, về ở trong căn nhà 99/1C Trương Minh Ký (nay là 99/1C Lê Văn Sĩ), sống hợp pháp bằng nghề thợ may, có chồng “đi theo vợ bé”. Suốt 2 năm trời, bà vừa may vá nuôi con, vừa trông coi hầm vũ khí. Bà không dám bỏ nhà đi lâu, vừa trông coi cho vũ khí tránh ẩm… Sau này, bà mới cảm nhận mình đã sống trên đống lửa nhiều năm liền, còn vào lúc đó, bà có suy nghĩ rất đơn giản: “Chiến tranh mỗi người một tay, mỗi người một việc góp sức cho gia đình”. Sau Mậu Thân, do có chiêu hồi chỉ điểm, hầm bị địch phát hiện. Bà bị địch bắt, bị đưa đi các nhà tù Tân Hiệp, Thủ Đức, Côn Đảo… Cha bà là ông Phan Văn Bảy bị bắt cùng 13 cán bộ, chiến sĩ liên lạc tại tiệm phở Bình (số 7 Yên Đổ). Ông và Nguyễn Huy Xích bị địch đem thủ tiêu. Gia đình bà Thúy còn có người em là Phan Thị Hồng-một nữ chiến sĩ biệt động bị cưa chân 4 lần. (Bà Phan Thị Thúy hiện sống tại 118/10 Trần Kế Xương, quận Phú Nhuận).
Kho ở ngã ba cây Thị số nhà 348/38B Bình Hòa-Gia Định, do Trần Văn Miêng xây và trông coi. Đang sống bằng nghề y tá, theo lệnh của tổ chức, ông Miêng xuống ngã ba Cây Thị tìm mua một căn nhà rẻ tiền, làm hầm bí mật là một cầu tiêu giả. Ông làm nghề bán bong bóng để mưu sinh và hợp pháp đi lại nhiều nơi. Người chịu trách nhiệm chở vũ khí đến cho ông Miêng là vợ chồng, con cái ông Chín Khổ. Họ làm ghe hai ngăn và giấu vũ khí trong đó. Chuẩn bị Mậu Thân 1968, không may ông Trần Văn Miêng bị tai nạn. Trước khi mất, ông kêu vợ là bà Võ Thị Sang đến bàn giao kho vũ khí cho bà, căn dặn: “Khi nào anh hai (Nguyễn Văn Trí) cho người về kêu tên thì giao cho người đó”. Từ đó, bà Võ Thị Sang thay chồng giữ hầm chờ đến Tết Mậu Thân, đón tín hiệu của người chỉ huy…
Kho dùng cho mục tiêu Bộ tư lệnh hải quân ngụy
Hầm này do bà Đặng Thị Hai-nữ giao liên cho biệt động Sài Gòn, cùng chồng là đồng chí Nguyễn Văn Lợi (Tô Minh Liêm) xây dựng từ năm 1963 và hoàn thành năm 1965. Từ ấy, suốt 3 năm trời, bà làm nghề thợ may trong xóm lao động, bí mật cùng chồng trông coi kho vũ khí. Kho này phục vụ cho trận đánh vào Bộ tư lệnh hải quân ngụy vào đêm mùng Một Tết Mậu Thân 1968. Khi súng nổ vào các mục tiêu, bà mang thai gần ngày sinh, cải trang quan sát tình hình gần Bộ Tư lệnh Hải quân, lòng quặn đau khi nhìn thấy địch phản công dữ dội mà đại quân không kịp vào ứng cứu. Sau Mậu Thân, hầm bị lộ, bụng mang dạ chửa, bà dắt hai đứa con nhỏ trốn đi. Địch treo giải thưởng 50 triệu đồng cho ai bắt được bà. Bằng lòng mưu trí, dũng cảm, người mẹ ấy đã vượt qua muôn vàn hiểm nguy, gian khổ để bảo toàn được bí mật cho cách mạng.
Kho dùng đánh vào Sứ quán Mỹ
Khi lực lượng biệt động đã bố trí xong đội hình tác chiến các mục tiêu, ngày 25-1-1968, Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam quyết định Phân khu 6 đảm nhiệm thêm mục tiêu Đại sứ quán Mỹ. Đây là một nhiệm vụ thật nan giải cho Bộ chỉ huy phân khu, bởi lực lượng và vũ khí ém trong nội thành đã phân phát cho các đội. Nhưng trước trách nhiệm “đánh vào Sài Gòn không thể bỏ sót một đầu não quan trọng như Đại sứ quán Mỹ”, đồng chí Ngô Thanh Vân (Ba Đen) và Nguyễn Văn Trí khẩn trương bắt tay thực hiện. Ban chỉ huy lực lượng bảo đảm đã giao cho Ba Bảo tổ chức vận chuyển được số vũ khí từ Trảng Bàng về Sài Gòn. Một tình huống phức tạp nảy sinh. Do một cơ sở của Ba Đen trong nội thành bị bể nên không có nơi cất vũ khí. Chiếc xe chứa hàng tấn thuốc nổ chạy đôn đáo trên đường phố mà vẫn không tìm được chỗ giấu ém. Tình thế vô cùng khẩn cấp. Mãi cho đến sáng mùng một tết, Hai Trí, Ba Đen, Ba Trinh mới vận động, thương lượng, thuyết phục được chị Đặng Thị Huệ (Hai Phê)- chủ nhân của ngôi nhà số 59 Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) cho Ba Bảo đưa xe vào nhà. Chị đã cho giấu 12 khẩu AK, 3 khẩu B40, 200 ký thuốc nổ TNT, 2 khẩu súng ngắn, 100 quả lựu đạn và 23 chiến đấu viên trong nhà mình. 1 giờ 30 phút ngày 31-1-1968 rạng mùng 2 Tết Mậu Thân, chị Hai Phê cùng người nhà giúp đưa vũ khí lên hai chiếc xe đang đậu trước cửa nhà, do Tư Hùng và Bảy Thuận lái về hướng mục tiêu Đại sứ quán Mỹ. Đội biệt động gồm 11 chiến sĩ đã chiến đấu vô cùng quả cảm, đánh bật hàng chục đợt phản kích của địch, chiếm giữ mục tiêu từ tầng trệt đến tầng 3 được 6 giờ, diệt và làm bị thương 124 tên, phá hủy nhiều phương tiện và tài liệu của địch. Tất cả đều hy sinh, chỉ còn Bảy Đen sống sót. Bị chỉ điểm, sau Mậu Thân, ngày mùng 9 tết, chị Hai Phê bị bắt, sau đó lần lượt những người thân của chị cũng bị bắt. Chị đã trải qua 5 năm trong tù. Hầu như cả gia đình chị bị đày ra Côn Đảo…
Kho dùng đánh vào Đài phát thanh ngụy
Đang sống êm ấm, chị Trần Thị Út, vợ Năm Mộc (Trần Phú Cương) thúc giục dọn về ngôi nhà 65 Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngay ngã ba mà nhiều người rất kiêng kỵ. Chị mở tiệm may Quốc Anh, chồng đi làm nghề mộc ở một cửa hàng bán đồ gỗ sinh sống. Sau vỏ bình phong đó, họ đang “sống trên đống lửa” mỗi ngày. Từ 1965-1968, họ đã xây hầm bí mật, cất giữ, trông coi kho vũ khí ngay chính trong ngôi nhà mình. Trong trận đánh vào Đài phát thanh Sài Gòn đêm mùng một rạng mùng 2 Tết Mậu Thân, tại tiệm may Quốc Anh đã giấu ém 12 cán bộ, chiến sĩ. Chị Út đã may lại bao đựng lựu đạn đã rã mục, canh giữ cho chồng và đồng đội lau chùi súng đạn đã han gỉ. Nửa đêm mùng một Tết, đội 4 đã sẵn sàng. Họ hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm Đài phát thanh, tất cả hy sinh, chỉ còn Ba Tẻo sống sót trở về. Tận mắt chứng kiến chồng hy sinh, chị nén đau thương, lo bảo vệ Nguyễn Văn Tăng (Tư Tăng) và Ba Tẻo dưới hầm, sau đó giúp họ thoát hiểm. Ngày mùng 6 Tết, chị độn bụng giả làm sản phụ đi sinh con. Thoát khỏi khu vực bị theo dõi, chị vào một nhà bảo sanh, trà trộn trong đám đông bệnh nhân rồi tìm đến một cơ sở ở đường Trần Quý Cáp. Từ đây, chị được giao liên đưa ra chiến khu. Anh Năm Mộc-đội phó đội 4 được truy tặng danh hiệu anh hùng LLVT nhân dân… Chị Nguyễn Thị Út hiện đang sống trong ngôi nhà số 73A Trần Quang Khải, quận 1, TP Hồ Chí Minh…
Kho dùng đánh vào Dinh Độc Lập
Chị Nguyễn Thị Hảo (Bảy Rau Muống), quê gốc Cà Mau-Ủy viên Ban chấp hành phụ nữ huyện Trần Văn Thời. Khi được ban chỉ huy đơn vị bảo đảm giao trọng trách xây dựng 4 cơ sở gồm 3 nơi có hầm giấu vũ khí và một nơi ém quân để chuẩn bị cho các trận đánh lớn vào Sài Gòn; bà cùng chồng là Lê Tấn Quốc tìm đến vùng rau muống ở phường 20, quận Tân Bình. Vợ chồng bà cặm cụi trồng rau muống đem bán, vừa bí mật thực hiện nhiệm vụ; thu nhập đủ nuôi sống cả nhà và chi phí hoạt động. Khi vũ khí theo đường sông, đến cách nhà bà độ 500 mét thì ra ám hiệu, để vợ chồng bà đẩy xe ba bánh ra, chở về. Để qua mắt bọn cảnh sát, bà ngụy trang cẩn thận xe vũ khí bằng trái cây. Số vũ khí này, về sau đồng chí Lê Tấn Quốc chở tới nơi tập kết bằng xe hơi cho đội 3 Biệt động đánh vào Dinh Độc Lập trong Tết Mậu Thân 1968. Trong trận đánh này, Lê Tấn Quốc anh dũng hy sinh, bà bị bắt vào tù, vượt qua những trận đòn dã man, giữ vững khí tiết cách mạng. Trở về với đồng đội, bà “Bảy Rau Muống” lại tiếp tục tham gia công tác cho đến ngày Giải phóng Sài Gòn…
Bài và ảnh: TRẦM HƯƠNG
-----------------------------------
(Còn nữa)