Chị Nguyễn Thị Ấu, nữ giao liên, vận chuyển vũ khí từ Trảng Bàng về Củ Chi, phục vụ cho các trận đánh của Biệt động trong Mậu Thân 1968.

(tiếp theo và hết)

Đó còn là kho vũ khí do Trần Văn Lai và vợ là Đặng Thị Thiệp xây dựng, bảo quản. Nhờ giỏi nghề trang trí nội thất, người chiến sĩ biệt động trong vai thầu khoán Mai Hồng Quế lọt vào mắt xanh tên trung tá trưởng phòng nội dịch dinh Độc lập để tự do ra vào cơ quan tối cao của chính phủ Sài Gòn. Năm 1965, ông mua ngôi nhà 287/70 Trần Quý Cáp, tự tay xây dựng hầm vũ khí, rồi lái chiếc xe 2,1 mét trong khi cửa nhà anh chỉ có 2,2 mét, đưa 2 tấn vũ khí gồm 350 ký thuốc nổ TNT, 10 súng AK, 3.000 viên đạn, 2 khẩu B40, 20 quả đạn và 50 quả lựu đạn xuống hầm. Một giờ đêm rạng mùng 2 Tết Mậu Thân, chính ông lái chiếc Citroen, từ ngôi nhà đưa đoàn quân quyết tử đánh vào dinh Độc Lập. Tiếc thay, do thuốc nổ và lựu đạn tịt ngòi, 5 chiến sĩ trong đội Biệt động hy sinh, số còn lại bị địch bắt sau khi chống trả đến viên đạn cuối cùng. Sau Mậu Thân, toàn bộ gia sản của nhà thầu khoán Mai Hồng Quế bị tịch biên. Cả gia đình ông phải rút khỏi Sài Gòn. Năm 1972, ông mới bị bắt mà địch không hề biết ông là Trần Văn Lai, Năm U.SOM, Mai Hồng Quế mà chúng từng treo giá 2 triệu đồng cho ai bắt được ông. Sau ngày hòa bình, căn nhà số 287/70 trở thành di tích cách mạng cấp quốc gia. Sự nghiệp cách mạng của ông có sự đóng góp to lớn, thầm lặng của hai người phụ nữ. Đó là bà Phạm Thị Phan Chính-người vợ đầu của ông, một cán bộ cách mạng, tạo vỏ bọc thuận lợi cho ông hoạt động hợp pháp, hy sinh năm 1964. Người vợ thứ hai của ông là bà Đặng Thị Thiệp- con gái một chiến sĩ cách mạng, làm vợ thật mà phải đóng vai “vợ bé”, “người làm” cho nhà tư sản Mai Hồng Quế. Bà đã sát cánh cùng ông trong vận chuyển, trông coi kho vũ khí. Khi ông bị truy nã, bà vượt qua muôn vàn khó khăn để nuôi con, trốn tránh sự khủng bố của địch. Ngày hòa bình, bà đã đi khai sanh cho 5 đứa con một lượt, mang tên cha là Trần Văn Lai, bởi cho đến lúc ấy, bà mới được công khai danh phận làm vợ của mình.

Bà Đặng Thị Thiệp, vợ Trần Văn Lai, đóng vai người ở, vợ bé nhà thầu Mai Hồng Quế, cùng chồng trông coi kho vũ khí tại 287/70 Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần). Đây là một trong các kho đánh vào Dinh Độc Lập. Ngày nay hầm vũ khí này được công nhận là di tích cách mạng cấp quốc gia.

Trong Mậu Thân 1968, lãnh đạo Phân khu 6 đã bám sát nội đô, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo các mục tiêu. Biệt động Sài Gòn đã lập được những Chỉ huy sở ngay chính trong thành phố.

Đó là địa điểm Phở Bình, số 7 Yên Đổ (nay là số 7 Lý Chính Thắng). Được sự chỉ đạo của ông Nguyễn Văn Trí (Hai Trí)- một trong những cán bộ phụ trách của lực lượng bảo đảm, vợ chồng ông Ngô Văn Toại mua căn nhà này từ năm 1966, mở tiệm phở với bảng hiệu “Phở Bình”. Đây là địa điểm thuận lợi để liên lạc. Lãnh đạo Phân khu 6 quyết định chọn địa điểm này làm Sở chỉ huy Biệt động. Đêm mùng một Tết, tòa nhà này chộn rộn, đông vui như một đại gia đình vui xuân nhưng “đại gia đình” ấy hầu hết các cơ quan trực thuộc Phân khu 6 và các các vị chỉ huy lực lượng Biệt động đến nhận nhiệm vụ. Chính nơi đây, Chính ủy Phân khu 6 Võ Văn Thạnh (Ba Thắng) phổ biến mệnh lệnh chiến đấu của Trung ương Cục và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, động viện, khích lệ các chiến sĩ trước giờ xung trận. Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu, kiêm chỉ huy các lực lượng Biệt động Quân khu Sài Gòn Gia Định chỉ huy các đội Biệt động bước vào trận tổng công kích các mục tiêu đầu não của Mỹ ngụy… Khi Tổng công kích diễn ra, sáng mùng 3 Tết, tiệm Phở Bình bị địch bao vây, bắt đi 13 đồng chí (sau đó, Phan Văn Bảy và Nguyễn Huy Xích bị đem đi thủ tiêu). Vợ chồng tiệm phở Bình bị bắt vào Tổng nha, bị tra tấn dã man. Sau đó, ông Ngô Toại bị đày ra Côn Đảo…

Ngày 16-11-1988, Sở chỉ huy tiền phương Phân khu 6 trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 ở số 7 Lý Chính Thắng được quyết định công nhận là di tích lịch sử quốc gia.

Không ai có thể ngờ một nhân vật phụ trách nghi lễ trong Phủ tổng thống lại là một trinh sát viên công khai, phục vụ các trận đánh vào khách sạn Caravelle, cư xá Brink (1964), Đại sứ quán Mỹ (30-5-1965)… Ông chính là Nguyễn Nông (Năm Bắc). Trong Mậu Thân 1968, ngôi nhà của vợ chồng Nguyễn Nông-Phan Thị Bản ở số 194/43/5 đường Bạch Đằng (nay là 251/5 Xô Viết Nghệ Tĩnh-một địa chỉ đỏ của quận Bình Thạnh) vừa là nơi chứa vũ khí, hầm bí mật nuôi giấu lãnh đạo Phân khu 6, vừa là Sở chỉ huy dự bị. Khi vũ khí được bí mật chuyển tới qua những bành cao su, vợ ông-bà Phan Thị Bản tìm cách đưa xuống hầm, trông coi, bảo quản. Khi Sở chỉ huy ở số 7 Yên Đỗ (phở Bình) bị lộ, chị Nguyễn Thị Thương-con gái đầu của ông đưa Chính ủy Phân khu 6 Võ Văn Thạnh (Ba Thắng) về nhà ẩn nấp. Từ đây, Năm Bắc lái xe đưa Ba Thắng, Nguyễn Văn Tăng (Tư Tăng) ra căn cứ. Ông cũng chính là người lái xe đưa nữ giao liên Năm Tâm (Nguyễn Thị Đoài) đến chủ hãng sơn Bạch Tuyết nhận 100 triệu đồng ủng hộ cách mạng… Chị Nguyễn Thị Mai, con gái thứ hai của ông cũng là một nữ giao liên mưu trí, dũng cảm. Sau Mậu Thân, gia đình ông được đưa vào căn cứ ở biên giới Cam-pu-chia, bị phân tán, lớp bị bắt vào tù. Vợ ông ôm trên tay đứa con chưa tròn tuổi, làm giao liên công khai, đưa lãnh đạo phân khu về miền Tây. Cuộc sống gian khổ khiến đứa con nhỏ của bà không chịu nổi sương, nắng; bị sốt cao, và mất. Kể chuyện Mậu Thân 1968, ông nói: “Phụ nữ rất quan trọng, bởi chồng làm thì vợ làm, vợ làm thì các con nghe mẹ, làm theo. Vì vậy mà cả nhà…”.

Gia đình ông Nguyễn Nông (Năm Bắc)-một trong những gia đình Biệt động trong ngày Quân báo họp mặt kỷ niệm 40 năm Mậu Thân.

Ngôi nhà số 171 Bạch Đằng (nay thuộc phường 15, quận Bình Thạnh) của vợ chồng Võ Bá Tài, Phạm Thị Thư nằm ở khu đất cao ráo, được lãnh đạo phân khu chọn làm nơi thiết lập trạm thông tin vô tuyến. Đây cũng là Sở chỉ huy dự bị của Bộ chỉ huy tiền phương. Sau Mậu Thân, “trạm thông tin vô tuyến” bị địch vây bủa. Bà Phạm Thị Thư cùng hai con gái là Võ Thị Nguyệt, Võ Thị Chi đã mưu trí đánh lừa địch, bảo vệ 8 đồng chí cơ yếu cấp đại đội trong hầm bí mật dưới cầu Hang suốt 28 ngày đêm…

Ngoài ra ngôi nhà ở đường Kỳ Đồng quận 3 do bà Hồ Thị Ba và Lê Thị Chi xây dựng và quản lý cũng là một cơ sở quan trọng. (Hiện bà Lê Thị Chi đang sống tại BB1- Cư xá Bắc Hải, Trường Sơn).

Với hệ thống kiểm soát dày đặc của chính quyền Sài Gòn, làm thế nào đưa được hàng tấn vũ khí vào nội thành? Chúng tôi đi tìm lời giải qua chân dung những con người thầm lặng. Khi Kế hoạch X được chuẩn bị, lực lượng bảo đảm của Biệt động đã đào tạo được những chiến sĩ vận chuyển dũng cảm, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cách mạng. Với vỏ bọc công khai là tài xế, mà Nguyễn Văn Bảo (Ba Bảo) là một huyền thoại của lòng yêu nước. Trước khi nhận nhiệm vụ, Ba Bảo lái chiếc Carilét, hiệu Pơgiô, chạy tới các chợ vùng biên giới Tây Ninh tập buôn lậu. Mục đích “tập buôn lậu” của anh là để tìm quy luật hoạt động, kiểm soát của địch. Có lái xe, chuyện còn lại là làm sao có được trạm trung chuyển vũ khí. Việc vô cùng khó khăn này lại được những lão nông ở Củ Chi đảm trách. Đó là ông bà Chín Khổ suốt đời chèo ghe, lênh đênh sông nước, mưu trí, dũng cảm vượt qua bao đồn bót giặc, đưa vũ khí vào nội thành. Đó là cơ sở hai anh em ông Dương Văn Ten, Dương Văn Đây ở ấp Thái Hòa, Thái Mỹ, Củ Chi; cơ sở chị Nguyễn Thị Ấu (Út Ấu)… Năm ấy, theo sáng kiến của anh Phạm Văn Tá (Tư Râu) ở vùng ven Bàu Mây, An Tịnh, Trảng Bàng; vũ khí được cuốn trong tấm cà tăng, được ngụy trang trong những cần xé dưa leo, cà chua, được chị Út Ấu đưa lên xe bò của hai anh em nhà họ Dương, chở ra quốc lộ 22, điểm gần các chợ đầu mối bán đồ hàng bông. Tại đây, Ba Bảo trong vai lái xe, thản nhiên đưa hàng chất lên xe. Từ đây, anh thực hiện những chuyến xe bão táp chở vũ khí vào nội thành Sài Gòn… Vũ khí còn được ngụy trang trong những tấm ván. Hôm ấy, từ ngôi nhà ông Chín Ten, hai cổ ván do người thợ mộc tài hoa Trần Phú Cương (Năm Mộc, sau là liệt sĩ, được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân)- một chiến sĩ biệt động, phụ trách giấu ém vũ khí trong nội thành từ Sài Gòn ra, hì hục đóng theo kiểu Nam Bộ, dài 2m, dày 12cm, rộng 1m, bên trong khoét rỗng chứa vũ khí, được nêm chặt bằng gạo. Khi bộ ván đã hoàn thành, ráp lại, không ai tìm ra một tì vết khả nghi. Bộ ván chứa bí mật Mậu Thân ấy được các thành viên gia đình họ Dương, chị Dương Thị Phiên (Hai Phiên), Út Ấu khệ nệ khiêng chất lên xe. Giữa lúc đó có đám lính đi tới. Các cô gái cười làm quen, nhờ chúng khiêng phụ bộ ván đưa lên xe…

Ngoài việc trực tiếp và bí mật chuẩn bị cơ sở trú ém quân, kho tàng cất giấu vũ khí, lực lượng bảo đảm còn xây dựng mạng lưới giao liên công khai, vào ra nội, ngoại thành hợp pháp. Đó là Trần Thị Bi (Vợ Anh hùng LLVT Đỗ Tấn Phong), Nguyễn Thị Đoài, Nguyễn Thị Nhu, Nguyễn Thị Ngọc Huệ, Phan Thị Thu, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Thị Tươi… Trong mũi tấn công vào Bộ Hải quân ngụy sáng ngày 31-1-1968 có một người mẹ ôm trên tay đứa con mới 2 tuổi vào trận đánh. Đó là bà Đoàn Thị Nhỏ, nguyên Ủy viên BCH Hội Phụ nữ Giải phóng Củ Chi. Địch không thể ngờ bà mẹ ấy cũng chính là vợ của Tư Chu (Nguyễn Đức Hùng), chỉ huy lực lượng Biệt động Sài Gòn mà sinh mạng của ông được chúng treo giá hàng triệu đô-la. Buổi chiều mùng một Tết Mậu Thân, người mẹ ấy ôm con từ Tây Ninh về Sài Gòn, dẫn đường đưa 11 chiến sĩ vào cơ sở ém quân. Rủi thay, chị chủ nhà sợ quá từ chối. Trong lúc ngặt nghèo, bà nghĩ ra cách đưa các chiến sĩ vào rạp hát, một số đánh “bầu cua cá cọp” cho họ lẫn vào đám đông, rồi một mình ôm con đi tìm cơ sở nhà bà Đặng Thị Hai, vợ Tô Minh Liêm (Mười Lợi). Lòng bà như lửa đốt khi không tìm ra địa chỉ, giữa lúc con khát sữa, khóc thét lên. Bà dỗ con, đôi chân rã rời qua lại, chợt thở phào nhẹ nhõm khi tìm ra ngôi nhà bà Mười Lợi. Do bà Mười sơ ý, xếp gọn cánh cửa, làm che khuất tấm biển ghi số nhà... Bốn mươi năm sau Mậu Thân, lòng bà vẫn đau thắt khi hầu hết những chiến sĩ nhận nhiệm vụ tấn công vào Bộ Tư lệnh hải quân ngụy năm ấy đều hy sinh. Đó là một trong hàng trăm tấm gương giao liên mưu trí, dũng cảm của giao liên…

Những chiến sĩ thầm lặng trong đường dây lực lượng bảo đảm đã góp phần quan trọng cho sự kiện Mậu Thân 1968. Trong khoảng thời gian không dài, lực lượng Biệt động đã xây dựng được đội quân bảo đảm gồm nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi, âm thầm phục vụ cho các cuộc chiến đấu của Biệt động Sài Gòn. Sau Mậu Thân, nhiều gia đình bị bắt vào tù, bị đày ra Côn Đảo, của cải bị tịch biên, bị đánh đập tra tấn cho đến chết. Nhưng họ đã sẵn sàng hy sinh tài sản, tính mạng để bảo vệ tổ chức. Đó là một trong những nét độc đáo, điểm son của lực lượng Biệt động Sài Gòn…

Bài và ảnh: TRẦN HƯƠNG

Những "chúa kho" quả cảm (Kỳ 1)