Thu hoạch bầu ở đảo Trường Sa Lớn.

Lần đầu tiên tôi được ra công tác huyện đảo Trường Sa. Từ thuở nhỏ, tôi đã đọc những vần thơ ca ngợi các chiến sĩ canh giữ vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: “Đứng canh ngày canh đêm/ Ngoài xa vời hải đảo.../ Mặc nắng mưa gió bão/ Cây súng chú chắc tay/Quân thù mà ló mặt/Biển lớn sẽ vùi thây”. Sau này, tôi được biết về Trường Sa với dáng vóc của những cây phong ba, cây bão táp dãi dầu trong sóng gió... và những con người lặng lẽ hy sinh, cống hiến vì quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Chiều trên bến cảng

Đứng bên mạn tàu Trường Sa 14, chị Nguyễn Thị Hiền – vợ Đại úy Đỗ Duy Cương như đã quen với những cuộc chia ly, quen với cuộc sống xa chồng nên tiễn anh đi chị vẫn cười thật tươi và hiền hậu. “Anh hãy hoàn thành tốt nhiệm vụ và sớm trở về với gia đình”, đó là điều mong muốn và hạnh phúc nhất của chị. Còn cậu con trai Đỗ Việt Anh, học lớp 5 thì mơ ước lớn lên cũng đi bộ đội như ba. Anh Cương chỉ ghì chặt con trai vào lòng dặn dò phải ngoan và nghe lời mẹ, khi ba về sẽ có quà. Đã từng làm nhiệm vụ tại các đảo Đá Thị, Len Đao, đây là lần thứ ba anh Cương ra công tác ở đảo Song Tử Tây. Tâm sự với tôi, anh nói: “Nơi mình đến thuộc khu vực phía Bắc của quần đảo Trường Sa. Tình hình hiện nay đang cần những người có kinh nghiệm ở đảo”.

Không được cứng cỏi như chị Hiền, chị Trang, hiện là giáo viên trường THCS Nguyễn Hiền (Cam Lâm, Cam Ranh, Khánh Hòa) có vẻ hơi buồn. Chị nói với theo chồng khi anh chạy đi lo công tác chuẩn bị của đơn vị: “Xong việc anh quay lại đây với em ngay nhé!”. Dường như thời gian quá gấp gáp và ngắn ngủi đối với chị và anh. Tiếng của chị cứ nhòa đi trong tiếng sóng, tiếng ồn ào của bến cảng trong chiều tiễn đưa. Ở một góc khuất của cầu cảng, đôi vợ chồng trẻ Lê Đăng Hùng và Nguyễn Thị Linh Giang lặng lẽ chia tay nhau. Cưới nhau mới được một tháng, họ đã phải chia xa. Ba mươi tuổi đời, 11 năm gắn bó với đời binh nghiệp, 4 lần đi công tác tại quần đảo Trường Sa, đây là lần đầu tiên Lê Đăng Hùng có người ra tận cầu cảng đưa tiễn. Còn cô vợ trẻ Linh Giang quyến luyến vượt quãng đường dài từ Hà Tĩnh vào tận cầu cảng Cam Ranh để tiễn chồng lên tàu. Chị cười rụt rè: “Hôm nay, anh ấy đi, ngày mai em lại lên tàu về quê. Mới gần nhau được một tháng… buồn nhớ lắm chứ anh. Nhưng em rất tự hào khi có chồng làm nhiệm vụ tại Trường Sa”.

Trên boong tàu, Trung úy Nguyễn Văn Thành, quê xã Thạch Kim, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh cũng đang nắm tay vợ thủ thỉ dặn dò trước khi ra đảo Nam Yết. Hai người cùng quê, cưới nhau được gần một năm, chị Lê Thị Nhì mới vào thăm chồng được hai lần. Thành kể: “Tuy vợ em vào thăm được hai lần, nhưng lần này ở lại tới hơn 5 tháng. Chắc chắn qua Tết cô ấy sẽ gửi thư ra, báo tin vui!”. Nhì lườm chồng cười mà mắt ngấn lệ vì giờ xa cách nhau sắp đến. Thành cứ chạy theo âu yếm vợ, còn Nhì thì khóc vùng vằng quay lưng như muốn bỏ đi. Cán bộ, chiến sĩ trên bến cảng reo ầm lên: “Tồ quá, ôm người ta đi”. Thành mới ôm lấy ngang lưng vợ, giữ chặt lại. Nhì lúc này mới quay lại mặt đỏ bừng vì ngượng, vừa cười, vừa khóc đấm thùm thụp vào vai chồng. Trong buổi chiều chạng vạng, đôi vợ chồng trẻ đứng bên nhau yên lặng, yên lặng nhìn cuộc chia tay ồn ào của bến cảng. Trông họ thật hạnh phúc.

Chiến sĩ đảo Trường Sa Đông viết thư về thăm nhà.

Nhớ lắm đất liền ơi! Trên đảo Đá Lát – điểm dừng chân đầu tiên trong cuộc hành trình, tôi bắt gặp Trung sĩ Nguyễn Văn Hữu, nhân viên báo vụ, quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An với ánh mắt buồn nhìn ra xa xăm. Qua tâm sự, tôi mới biết lần này tàu ra Hữu chẳng nhận được lá thư nào. Hữu ra đảo làm nhiệm vụ đã một năm rồi. Mọi khi lần nào tàu ra Hữu cũng nhận được rất nhiều thư. Và mỗi lần tàu về, Hữu cũng viết rất nhiều thư gửi gia đình, bạn bè và người thân... Tôi hiểu và thông cảm với tâm trạng của Hữu lúc này. Quả thực đối với quân và dân trên đảo, thư là món quà vô giá. Đặc biệt các chiến sĩ trẻ họ xem những lá thư nhà như những món ăn tinh thần, cổ vũ động viên họ chiến đấu bảo vệ biển đảo. Họ viết và đọc thư không biết chán, có những bức thư đọc đi, đọc lại đến thuộc lòng, có lá thư đã nhàu nát nhưng vẫn được lưu giữ cẩn trọng.

Nếu như nơi biên cương Tổ quốc, các chiến sĩ Biên phòng tặng quà người thân là những cánh hoa phong lan rừng, thì các chiến sĩ nơi đảo xa nhặt các loài ốc biển, san hô kết thành hoa ốc biển gửi về đất liền tặng người thương nhớ. Trên những hòn đảo đi qua, nơi đâu tôi cũng gặp những vòng hoa ốc. Những chiếc vỏ ốc như những nụ hoa hồng, qua bàn tay khéo léo của người lính đảo đã trở thành bó hoa, cây hoa, lọ hoa… Sau khi kể với tôi về kinh nghiệm làm hoa ốc biển, Chuẩn úy Lã Văn Tâm, khẩu đội trưởng 12,7mm, quê ở Nga Sơn, Thanh Hóa bộc bạch: “Khi vào đất liền em sẽ tặng mỗi người thân một cành. Còn bó hoa “999 đóa hồng” này em sẽ gửi tặng người em yêu. Hoa ốc không đẹp bằng hoa lụa, hoa thật... nhưng chắc chắn người ấy sẽ hiểu tình cảm của em”. Những bông hoa mang cả tâm hồn của người lính biển qua những ngày sóng gió kết thành. Trở về từ đảo xa, hoa ốc đã trở thành món quà vô giá trong ba lô người lính.

Gia đình lính đảo xa

Cảm động nhất đối với tôi khi nhận thùng quà từ tay Thiếu tá Vũ Đức Duân, Phòng Cơ yếu Quân chủng Phòng không - Không quân gửi cho anh trai Vũ Thành Luân ở đảo Thuyền Chài. Cứ đều đặn năm nào cũng vậy, biết phóng viên báo Quân đội nhân dân ra quần đảo Trường Sa công tác, anh Duân lại lo chuẩn bị quà là bức thư, những hạt giống rau xanh, rau thơm, rau muống, thì là, rau mùi, rau húng Láng… và quà quê – những thứ thiết yếu mà bộ đội trên đảo rất cần. Bởi lẽ, trước đây anh Duân đã có 2 năm công tác trên đảo Thuyền Chài và giờ anh đã về đất liền 4 năm, nhưng quà anh vẫn gửi đều ra đảo mặc dù biết rằng những người quen của anh không còn công tác ở đó nữa. Anh Duân tâm sự: “Từng sống ngoài đảo mình biết, cái gì thiếu thì mình gửi ra cho anh em thôi.” Thế mới biết những người ở đảo gắn bó với nhau như thế nào. Họ gắn bó keo sơn như anh em một nhà mà. Gia đình anh Duân truyền thống làm ngành cơ yếu, anh Duân được vào đất liền thì anh trai là Thiếu tá Vũ Thành Luân lại nhận nhiệm vụ ở đảo. Nhận món quà từ tay tôi, anh Luân rất cảm động. Cái bắt tay, ôm thật chặt là cử chỉ của những người lính đảo đối với đồng đội. Tôi được anh mời lên phòng và tay anh rung rung xé từng miếng băng dán của thùng quà. Anh reo lên một tiếng làm tôi giật mình vì quà đầu tiên anh nhận là lá thư và bức ảnh của cậu con trai anh vừa nhập ngũ tháng 10-2007 ở Đoàn Phòng không B71. Bất giác tôi nhớ tới câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Lớp cha trước, lớp con sau/ Đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Thế là con trai anh Luân cũng đã là bộ đội theo nghiệp bố, mẹ. Vợ anh là Thiếu tá Nguyễn Thị Huyền, công tác tại sân bay Kiến An, Hải Phòng. Niềm vui và hạnh phúc của đồng đội được chia sẻ cho cả điểm đảo. Tôi thấy mình cũng làm được điều gì đó dù rất nhỏ trong hạnh phúc của đồng đội.

Đến đảo An Bang, chiến sĩ Lê Thiên Lâm, để nguyên bộ quân phục lao xuống biển kéo xuồng chúng tôi vào đảo. Và cứ vẫn để nguyên bộ quần áo ướt đẫm nước mặn, Lâm bóc thư đọc ngay nơi cầu cảng, bởi anh vinh dự là người đầu tiên trên đảo nhận thư, vừa đọc, anh vừa cười rạng rỡ, mấy anh bạn chen vào ngó, anh vội giấu đi nói thư bạn, thế mà mấy chiến sĩ trẻ không tha, vẫn lén xem cho bằng được. Bỗng một chiến sĩ la lớn: “A thằng này, thư người yêu mà nói thư của bạn”. Thế rồi tất cả cùng ồ lên cười thật vui. Còn Đại úy bác sĩ Trương Quang Thắng thì không kìm được sự xúc động khi nhìn tấm hình cậu con trai mà khi đi anh chưa kịp biết mặt. Anh cứ ngó nghiêng, rồi cười nói vui: “Xem nó giống ai”, rồi anh rối rít đem khoe với mấy đồng nghiệp trên đảo. Còn Trung úy chuyên nghiệp trắc thủ ra-đa Đỗ Văn Huyên (đảo Thuyền Chài B) - người đã công tác 18 năm ở các đảo Nam Yết, Phan Vinh, Thuyền Chài… kể: “Mình quê ở Thái Bình, cô ấy dạy học ở Phước Tân, Long Thành, Đồng Nai. Bọn mình quen nhau qua thư từ suốt 9 năm, rồi nên vợ nên chồng”. Vợ Huyên là cô giáo Nguyễn Thị Kim Oanh trước khi cưới họ đã viết cho nhau gần 500 lá thư. Bây giờ, ngần ấy bức thư vẫn được lưu giữ đủ đầy. Hiện nay, anh chị đã có hai con (một trai một gái). Huyên tiết lộ: Qua giới thiệu của anh, một đồng đội trên đảo cũng tỏ tình qua thư từ rồi yêu người bạn của vợ anh và giờ cũng đã thành duyên. Khác với các anh đã có gia đình, Binh nhất Cao Văn Bảy, 19 tuổi, chiến sĩ của đảo An Bang, quê ở Nghĩa Hưng, Nam Định rất vui mừng khi nhận được một tập thư, đặc biệt trong đó có thư của người yêu chưa biết mặt. Bảy tâm sự: “Cứ 3 tháng mới có tàu ra nên chúng em khát khao tình cảm quê nhà lắm”. Gia đình Bảy có 7 anh em trai thì đã có 5 người anh đi bộ đội. Bảy là con út vinh dự được tiếp bước các anh. Ở đảo, lúc buồn Bảy chỉ biết viết thư, tăng gia và chơi đàn, ca hát.

Phong tục đẹp giữa trùng khơi

Đêm trên đảo lại mang một sắc thái khác. Lúc này, chỉ còn lại tiếng sóng vỗ ầm ào. Tôi lặng lẽ ra ngồi ngay dưới chân cột mốc chủ quyền, lắng nghe sự yên bình của đảo về đêm. Vầng trăng rằm nhạt nhòa trong những làn mây. Bất chợt cơn mưa ập xuống, tôi vội chạy về phòng, nhưng cơn mưa cũng chỉ lướt qua dường như để cho bầu trời đêm thêm tĩnh lặng. Nhớ đến bài hát "Mưa Trường Sa" của cố nhạc sĩ Xuân An, tôi cố thức để chứng kiến cơn mưa về trên đảo, để được một lần chứng kiến hình ảnh chiến sĩ ta đón mưa, để lại được thấy "từng đôi chân băng qua chiến hào, thoáng giây ngập ngừng, đón dòng nước ngọt"; thế nhưng đành thất vọng, bởi cơn mưa chỉ thoáng qua. Bất chợt lại nhớ đến câu chuyện của đảo trưởng đảo Trường Sa Đông về những cơn mưa "chọc tức bộ đội". Đó là những cơn mưa ầm ào giữa mùa nắng lửa, nhưng lại cứ vờn quanh đảo mà không vào đảo. Bộ đội ta mới gọi đó là những cơn mưa "chọc tức bộ đội". Tuy nhiên, đó là những câu chuyện của những thời đã qua. Bây giờ, nước trên đảo cũng đã khá nhiều rồi. Nhất là vào những tháng mùa mưa. Còn mùa khô tuy dùng tiết kiệm hơn nhưng cũng không đến nỗi thiếu nước như trước kia. Nói đến chuyện thiếu nước, tôi nhớ đến hình ảnh như là một nét đẹp văn hóa trên quần đảo Trường Sa. Đó là đến bất cứ đảo nào, chúng tôi cũng bắt gặp hình ảnh những chậu nước thật trong và mát, được cẩn thận đem ra tận cầu cảng để mời khách rửa mặt. Giữa cái nắng ngột ngạt, sự nhớt nhát của nước mặn, được vốc từng vốc nước ngọt mát lành mới hạnh phúc làm sao, càng thêm quý dòng nước ngọt giữa Trường Sa.

Thượng tá Nguyễn Đình Vượng - Phó chính ủy đoàn M46 Hải quân tâm sự: Mình gắn bó với Trường Sa từ năm 1985, nhưng cũng không nhớ rõ từ bao giờ, Trường Sa có cái tục mời nước ngọt như thế này… Có lẽ, ban đầu chỉ mang ý nghĩa hiếu khách. Những người ở đảo muốn đem những gì quý hiếm nhất trên đảo để mời những người khách từ đất liền ra. Lâu rồi trở thành một thói quen, một phong tục mà đảo nào cũng có. Và giờ đây, trở thành một nét văn hóa riêng có ở Trường Sa. Không chỉ là nước ngọt, rau xanh trên đảo giờ đây bộ đội ta cũng đã tăng gia, tự túc đủ phục vụ cho sinh hoạt của cán bộ, chiến sĩ trên đảo. Nhất là với những đảo nổi. Đảo chìm tuy có khó khăn hơn vào mùa mưa, sóng gió, nước mặn rau không phát triển được, nhưng cứ hết sóng gió, hết mưa lớn là chiến sĩ ta lại tăng gia, rau lại mọc lên mơn mởn. Những vạt rau mồng tơi, rau cải, đậu, rồi cả những cây rau thơm, lá mơ... cứ đua nhau vươn lên giữa nắng gió Trường Sa. Trên các đảo lớn, chúng tôi còn gặp những giàn bầu, giàn bí, giàn mướp... sai trĩu quả, và cả những cây xương rồng được trồng thử nghiệm làm rau xanh trên đảo cũng đang vươn lên mơn mởn…

(còn nữa)

Bài và ảnh: PHAN ANH