“Mấy đời bánh đúc có xương - mấy đời mẹ ghẻ biết thương con chồng”. Câu tục ngữ từ lâu đã như một lời đúc kết mối quan hệ giữa mẹ ghẻ và con chồng.
Khi nghĩ tới mối quan hệ ấy, người ta nghĩ ngay tới sự đối xử tàn ác, cay nghiệt của dì ghẻ với con chồng. Vậy nhưng, với bà Nguyễn Thị Thăng ở Khu tập thể K7, Thụy Điền, xã Tân Lập, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc thì khác. Cho tới nay, khi đã ngoài 60 tuổi, bà vẫn luôn hạnh phúc và tự hào rằng mình có một “tài sản khổng lồ”. Tài sản ấy không gì khác ngoài sự thành đạt, trưởng thành của 6 người con. Và ít ai có thể nghĩ tới bà là mẹ ghẻ, mẹ nuôi của cả 6 người con trong gia đình ấy.
“Tôi luôn tâm niệm mình là người mẹ”
Chúng tôi tới nhà bà Nguyễn Thị Thăng vào lúc trời đã xẩm tối. Tiết xuân hơi se lạnh, nhưng không khí trong ngôi nhà nhỏ ấy lại thật đầm ấm. Đó là hơi ấm hạnh phúc gia đình. Bà và anh con trai út đón tiếp chúng tôi bằng nụ cười thật hiền hậu của lòng hiếu khách.
Bà thân mật mời chúng tôi dùng bữa cơm gia đình đạm bạc mà chúng tôi ăn thấy ngon hơn bất cứ bữa ăn “mâm cao cỗ đầy” nào. Những cử chỉ chăm sóc con, cháu của bà Thăng làm chúng tôi thực sự xúc động và không khỏi ngạc nhiên. Những tình cảm thân thương ấy làm bữa cơm tuy rau muối mà vẫn ngon ngọt vào tận đáy lòng. Đứa bé gọi bà là bà nội cứ tíu tít khoe chuyện được cô giáo khen học tốt và cho điểm 10, nũng nịu khi bà gắp vào bát miếng thức ăn. Một bữa cơm gia đình, nhất là một bữa cơm gia đình với hoàn cảnh của bà Thăng, một người mẹ ghẻ trong thời buổi này thật hiếm có.
 |
| Bữa cơm đầm ấm hằng ngày của gia đình bà Thăng (mặc áo sẫm màu). |
Ăn xong bữa, chúng tôi mạn phép hỏi về quan niệm mẹ ghẻ con chồng, anh Mai (con trai út của bà Thăng) tỏ vẻ không hài lòng. Anh nói: “Chúng tôi luôn coi bà là mẹ đẻ, bà cũng chưa bao giờ coi chúng tôi là con chồng”. Bà Thăng nhìn con với vẻ trách móc vì không lịch sự với khách. Anh xin lỗi rồi rót nước mời chúng tôi uống. Điều này làm chúng tôi càng thêm thấu hiểu tình cảm mà bà Thăng đã dành cho gia đình, cho con cháu lớn lao, sâu nặng đến nhường nào. Không những là người làm không khí trong gia đình luôn luôn ấm áp, bà còn là “nóc” của ngôi nhà nhỏ đầy hạnh phúc này.
Bà Thăng lúc này như nhớ lại những kỷ niệm xưa khi bà mới lấy ông nhà, mới bước chân vào làm mẹ ghẻ trong gia đình. “Lúc ấy, quả thật tôi cũng lo lắng lắm. Bởi ông có tới 5 người con, trong ấy có 3 người là con trai, đứa lớn cũng độ 10 tuổi, đứa nhỏ lên 7 tuổi. Sợ hơn cả là những quan niệm ở đời. Mà thời ấy, mẹ ghẻ con chồng khi nhắc tới là người ta thấy ghét mẹ ghẻ. Nhiều người trong dòng họ cũng không đồng ý lắm vì sợ định kiến. Nhưng tôi vẫn nhất định lấy ông ấy, và hứa với bản thân mình làm tròn trách nhiệm của một người mẹ”.
Bà còn kể thêm, khi ấy bà có một người con gái nuôi, đó là chị Thoa, con gái út của bà bây giờ. Ngày ấy cuộc sống còn khổ, gia đình lại đông người. Mỗi khi vào bữa ăn, thấy các con mình khổ bà không thể cầm được nước mắt. Mỗi khi màn đêm buông xuống là bà lại một mình ngồi khóc thút thít thương con, khiến cho chồng bà lúc ấy cũng phát cáu lên.
Anh Mai ngậm ngùi: “Những bữa cơm độn khoai, độn sắn, mẹ tôi thường hớt lấy phần cơm cho các con, phần khoai sắn về mình. Thú thật, khi mới đầu, chúng tôi cũng sợ, cũng không thích, về sau thì… mẹ là mẹ của chúng tôi thật sự. Mẹ đẻ ra chúng tôi xấu mệnh có công sinh, nhưng mẹ thì lại có công dưỡng dục, nuôi nấng chúng tôi trở thành người tốt của xã hội”.
Những lời nói của anh Mai, chúng tôi dám chắc nó xuất phát từ đáy lòng của một người con với mẹ khi khoé mắt anh đỏ lên và ngấn lệ.
Đồng lương giáo viên của chồng ngày đó chỉ có 47 đồng, số tiền ít ỏi ấy không đủ để mua gạo cho các con. Bà Thăng cứ thế âm thầm làm lụng, đổi công, đổi sức để lấy gạo cho gia đình. Làm hết phần việc của nhà mình bà lại đi làm thuê cho nhà khác, trong đầu bà luôn có ý nghĩ mình làm thêm được bát gạo nào thì tốt bát ấy. Bà lo các con đang tuổi ăn tuổi lớn mà không đủ no thì tội lắm.
Anh Mai rơm rớm nước mắt: “Ngày ấy, gia đình chẳng có gì. Cuộc sống khổ cực, vậy mà khi chúng tôi đi trọ học, mỗi tuần mẹ vẫn gửi cho chúng tôi đều đều 3 cân gạo. Như thế, ở nhà chỉ còn lại 1 bát đàn (bát đất ngày xưa) độn với những thứ khác để ăn. Chúng tôi thấy cảm kích lắm và hứa với mình rằng sẽ thành đạt để không phụ công dưỡng dục ấy của mẹ”. Cũng chính vì những hy sinh của mẹ dành cho mà các anh, các chị ai nấy đều quyết tâm học hành thành tài để sau này có cơ hội mà báo hiếu.
Chúng tôi cũng không thể giấu nổi cảm xúc khi nghe câu chuyện kể của những người con chồng về người “dì ghẻ” của mình. Câu chuyện như một chuyện cổ tích được một người phụ nữ giản dị viết nên.
Hiện nay cả 6 người con ấy đều đã thành đạt và lập gia đình. Năm 1995, ông nhà mất. Chính tay bà lại chăm lo, dựng vợ, gả chồng cho cả 6 người con ấy. Gia đình bây giờ mỗi người một cơ ngơi, đều hạnh phúc và đầy đủ.
Chị Phượng (vợ anh Mai) cũng góp thêm: “Ngày tôi lấy anh Mai, tôi cũng sợ lắm khi nghe anh nói bà không phải là mẹ đẻ. Mà mẹ chồng nàng dâu vốn không mấy hòa hợp. Nay trong hoàn cảnh ấy tôi cũng rất lo lắng. Nhưng thời gian đã chứng minh cho tôi một điều bà là bà mẹ chồng tuyệt vời nhất”.
Khi được hỏi để có một đại gia đình đầm ấm và hạnh phúc như thế có là một điều khó? Bà Thăng nhanh nhẹn trả lời: “Không khó, đơn giản là mình hãy luôn làm tròn trách nhiệm của một người mẹ vì mình là mẹ. Tình yêu của một người mẹ sẽ làm được tất cả. Các anh thấy đấy, đến hôm nay tôi luôn tự hào vì con cháu của tôi”.
Đàn ông là trụ cột của một gia đình đã là khó, người phụ nữ, lại không phải mẹ đẻ của một đàn con cháu, giữ được một nếp nhà như thế thì quả thật là đáng trân trọng.
Một đại gia đình hạnh phúc
Sự thành đạt của 6 người con là điều hạnh phúc nhất của một người làm mẹ. Nhất là với một người mẹ như bà Thăng. Nó không còn là một hạnh phúc giản đơn nữa mà nó là một “tài sản” vô giá đối với bà, với gia đình; là tấm gương cho bao nhiêu gia đình khác trong làng, trong xã phải noi theo và cảm phục.
Giờ đây, mỗi người con đều có gia đình riêng nhưng mỗi ngày nghỉ các anh chị lại cho các con về thăm bà. Bà cháu quấn quýt bên nhau thật vui vẻ và đầm ấm. Cháu kể chuyện cho bà nghe về thành tích học tập, bà chăm cháu từng miếng cơm, ngụm nước.
Người dân trong xóm cảm động nói: “Quả thật, nhìn vào gia đình nhà bà ấy nhiều khi chúng tôi cảm thấy thèm”. Người dân trong xóm, trong làng, có nhiều gia đình lục đục cãi vã khi nhìn thấy mái nhà êm ấm của bà Thăng cũng cố gắng để sống tốt và giữ hạnh phúc của gia đình.
 |
| Bà Thăng chăm sóc cháu nội trong giờ học buổi tối. |
Các con bà Thăng, nay người làm Giám đốc đài Viễn Thông của huyện, người làm giáo viên Trường Quân sự Quân khu 2. Người con trai đang ở với bà, anh Trần Thai Mai là hiệu trưởng của một trường THCS. Họ luôn tâm niệm rằng phải làm sao phụng dưỡng, đền đáp công ơn dưỡng dục của mẹ. Các anh chị đều ở trên thành phố, có nhà cao cửa rộng muốn đón mẹ lên để chăm sóc nhưng bà nhất quyết không đồng ý vì bà muốn ở lại ngôi nhà nhỏ nơi thôn quê, chăm sóc hương khói cho tổ tiên. Giữ nếp cho con, cho cháu sau này nhớ tới cội nguồn của cha ông mình. Điều quý nhất là các cháu của bà Thăng giờ cũng đều là những học sinh giỏi, người con, người cháu ngoan của gia đình, xã hội.
Giờ tuổi của bà đã cao, nhiệm vụ của bà lại là chăm lo cho các cháu việc học hành. Bà nói: “Chúng phải được học hành đàng hoàng, có học thì mới nên người được, nhìn các con, các cháu thành đạt, giỏi giang thì không có tấm bằng khen, không có một niềm hạnh phúc nào có thể đổi được đâu”.
Gia đình nhà bà Thăng năm nào cũng nhận được danh hiệu gia đình văn hóa và là tấm gương cho mỗi gia đình trong xã. Người làng, người xóm thì không ngớt những lời cảm phục. Nhưng với bà Thăng thì điều đó không quan trọng, với bà quan trọng nhất là giữ được nếp của một gia đình hạnh phúc, thuận hòa. Nhìn thấy con, cháu mình nên người để mỗi khi nhìn lên tấm hình của người chồng đã khuất bà có thể tự hào nói với ông, bà đã làm tròn nhiệm vụ, không phụ lòng tin yêu của chồng khi còn sống. Mỗi khi thắp nén hương lên bàn thờ tổ tông bà có thể vinh dự báo cáo với các cụ những thành tích của con, của cháu bà.
Đối với bà là trách nhiệm của một người mẹ, đối với các anh chị đó là một người mẹ có công lao lớn trong cuộc đời mình. Nhưng đối với nhiều người đây là một “hiện tượng”, một kì tích của một người mẹ ghẻ mà không mấy ai làm được. Bà là người đã làm cho hình ảnh người mẹ ghẻ trở nên đẹp đẽ hơn những gì mà người ta vẫn thường nghĩ. Quan niệm xưa của cha ông đã được những việc làm của bà thay đổi.
Trong cuộc sống của thời buổi hiện nay, câu chuyện về gia đình bà Thăng quả là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường. Một câu chuyện mà có lẽ không có ngôn từ nào có thể diễn tả hết được sự đẹp đẽ hơn thế nữa.
Chia tay bà chúng tôi ra về khi đêm đã khuya. Bầu trời lấp lánh sao. Nhìn vào ngôi nhà nhỏ ấy, bà Thăng là người làm tỏa rạng sự ấm cúng của một gia đình.
Bài và ảnh: TRẦN ĐỨC HẠNH