Lê Quang Ninh (thứ hai từ trái sang) được các đồng chí lãnh đạo huyện Trảng Bàng, Tây Ninh đón tiếp khi vừa dẫn tiểu đoàn phản chiến ra với cách mạng. Ảnh: TLBV

(Tiếp theo và hết)

Sau chuyện làm Phong chẳng những “lọt tai” mà còn hết lời khen anh là “vị tha” để tách được thiết đoàn 10 ra khỏi tiểu đoàn mình, kết quả tám phút này đã có giá hơn cả vàng ngọc. Tuy vậy Ninh vẫn đang trong tâm trạng của một người vừa cưỡi được lên lưng hổ. Anh biết lời kêu gọi của mình đối với các sĩ quan, binh sĩ của tiểu đoàn ở thời điểm này là rất thuận lợi. Họ thấy nó như là một cái phao giữa dòng nước lũ phải bám ngay vào đó để tự cứu nguy cho họ. Nhưng không thể dám chắc cả tiểu đoàn đều như thế khi họ được phổ biến chủ trương khởi sự này. Ngay tám sĩ quan được anh mới mời họp vừa xong, tuy tất cả đều đồng loạt giơ tay hưởng ứng theo anh, nhưng rất có thể có người đã giơ tay vì khi ấy không thể nào làm khác. Còn chung trong tiểu đoàn chắc chắn sẽ có một số chưa hiểu được thấu đáo tình hình, vì họ nghĩ chung quanh họ, các lực lượng chi khu, tiểu khu, sư đoàn vẫn còn nguyên vẹn, đặc biệt khu vực phía tây bắc Sài Gòn từ Gò Dầu về Củ Chi chưa có đơn vị nào bị đánh thiệt hại nặng hay bị tiêu diệt trong thời gian này nên cuộc chiến còn kéo dài, do đó mà họ do dự… Một bộ phận khác thuộc các thành phần mà gia đình hoặc bản thân họ là ác ôn, tư tưởng còn căm thù Cộng sản nên họ muốn tiếp tục chiến đấu “còn nước còn tát” đến cùng.

Tin rằng đã qua được hai “cửa ải” quan trọng nhất rồi, mình nhất định sẽ đưa được tiểu đoàn ra vùng giải phóng, nhưng Ninh vẫn không thể không nghĩ đến những trở ngại thực tế đó mà có biện pháp hạn chế nó ở mức thấp nhất để nó không cản được “cơn lốc” của cả tiểu đoàn. Anh lệnh cho tiểu đoàn phó Lam Sơn, ủy viên ủy ban khởi nghĩa đi cuối đội hình để thúc gọn quân lên. Còn anh lại phóng xe đi lướt hết một lượt hàng quân để thầm bảo các đại đội trưởng “hãy giữ vững quyết tâm” rồi ở hẳn vị trí dẫn đầu khi anh đã quyết định cho tiểu đoàn rời lộ 22 rẽ vào một xã cách lộ chừng một ki-lô-mét. Ở đây, qua chị Tư Nhẫn anh biết sẽ dễ dàng bắt liên lạc được với quân giải phóng. Trong khi ấy Ninh vẫn liên lạc đều đặn với Thiếu tá Phong để viên chỉ huy thiết đoàn 10 vẫn luôn yên tâm cho thiết đoàn giữ đúng cự ly như quy ước hiệp đồng. Ninh có biết đâu lúc này thiết đoàn 10 vẫn chưa rời khỏi Trảng Bàng, bởi Phong cho rằng: “xe tăng của mình đuổi theo bộ binh mấy chốc!”. Thêm cơ may vô tình đó đã tăng khoảng cách an toàn cho tiểu đoàn Ninh. Cũng chính lúc này, các đại đội trưởng được lệnh của anh đã cùng lúc phổ biến quyết định: “Khởi sự ly khai phản chiến” của ủy ban khởi nghĩa. Ủy ban đó do chính tiểu đoàn trưởng Lê Quang Ninh, người của Mặt trận Dân tộc giải phóng đứng đầu nên “cơn lốc” của tiểu đoàn anh đã thật sự “nổi gió” từ đây. Không một sĩ quan binh sĩ nào dám tỏ ra công khai chống lại “cơn lốc” đó, dù họ nằm trong các thành phần mà Ninh dự đoán. Chỉ có một số nhỏ mà sau này, khi điểm quân lại, Ninh mới biết là họ đã “dám chống lại” bằng cách lặng lẽ rời bỏ đơn vị trước khi tổ đặc nhiệm do Ninh cử đi đã bắt liên lạc được với quân giải phóng.

Tổ đặc nhiệm đó gồm 4 sĩ quan và binh sĩ không mang súng, chỉ mang theo một máy thông tin do tiểu đoàn phó Lam Sơn dẫn đầu. Họ phải vượt qua một cánh đồng trống rộng mênh mông để tới một làng bạt ngàn màu xanh phía trước, nơi mà Ninh biết chắc chắn đã có mặt Quân giải phóng. Từ chiếc xe chỉ huy của mình bằng ống nhòm, Ninh theo sát từng bước đi của họ. Trên dọc đường Ninh thấy họ đã gặp một tốp dân vệ. Ninh yên tâm thấy họ đã nhanh chóng tước súng rồi trói và nhét khăn vào miệng tốp dân vệ để bọn chúng “bất động” tại đó. Qua được “chướng ngại” này, Ninh vẫn thấp thỏm nỗi lo lớn nhất là tổ “đặc nhiệm” của mình bị phía bên ta bắn ra mặc dù trên tay tiểu đoàn phó Lam Sơn bây giờ đã luôn giơ cao “lá cờ hàng” làm vội bằng một mảnh của chiếc võng màu nõn chuối. Ninh cũng hồi hộp, tim đập dồn dập hơn khi Lam Sơn cùng cả tổ đã vô rồi chìm bóng trong thảm xanh phía trước đó. Chiếc ống nhòm trên tay anh lúc này đã hoàn toàn vô hiệu. Chỉ còn tập trung đón chờ tín hiệu trong cáp nghe của chiếc máy thông tin vô tuyến. Sự im lặng của nó lúc này làm Ninh còn lo hơn cả mọi nỗi lo sợ anh đã trải qua. Trạng thái ấy bỗng ngược lại hoàn toàn khi tiếng nói của Lam Sơn từ phía trước đã vang về. “Anh Năm! Báo cáo anh Năm, chúng tôi đã gặp được quân giải phóng! Các anh rất hoan nghênh chúng ta. Anh cho anh em của tiểu đoàn mình sang luôn đi. Đơn vị quân đội ở đây sẽ rải ra bảo vệ và cùng đồng bào sẵn sàng đón chúng ta!”.

Ninh muốn reo to lên: “Ôi mẹ Việt Nam ơi! Cuộc binh biến của chúng con chắc chắn sắp thắng lợi hoàn toàn rồi!”, nhưng tiếng reo ấy lúc này chỉ thể hiện và hòa trong mệnh lệnh: “Anh em sĩ quan và binh sĩ tiểu đoàn 1! Chúng ta đã bắt được liên lạc với quân giải phóng rồi. Bộ đội và đồng bào ở phía trước đang sẵn sàng đón tiếp chúng ta. Tất cả cùng theo tôi tiến sang!”. Nói xong cái mệnh lệnh chưa có trong đời chỉ huy của mình đó, Ninh liền bảo lái xe mở hết tốc lực. Sau chiếc xe Jeep dẫn đầu của anh là 2 chiếc xe GMC vận tải chở nặng quân cụ của tiểu đoàn và cả đội hình của tiểu đoàn, không phải đi mà cùng chạy ào ào theo xe. Trong cuộc đời binh nghiệp, có lẽ đây là lần đầu tiên, những sĩ quan và binh sĩ của tiểu đoàn Lê Quang Ninh có được một quãng đường hành quân trong tâm trạng đột ngột thay đổi cuộc đời đầy náo nức như thế này.

Sau tổ đặc nhiệm, Ninh là người đầu tiên được ôm gọn trong vòng tay của một đồng chí chỉ huy Quân giải phóng. Cũng như anh toàn thể anh em binh sĩ của tiểu đoàn, gương mặt ai cũng từ ngỡ ngàng đến hết sức xúc động khi mình được bộ đội giải phóng và đồng bào đón tiếp như đón tiếp người thân đi xa trở về. Không hề có biểu hiện gì là người của hai chiến tuyến khi cả tiểu đoàn anh đã xếp súng đạn thành từng đống, nhưng vẫn còn mặc nguyên sắc phục quân đội Sài Gòn. Ninh đã phỏng đoán không sai. Bộ đội đón các anh là một đơn vị chủ lực của quân đoàn 3. Đã thống nhất từ trước với chị Tư Nhẫn “Nếu lúc ly khai ra gặp quân giải phóng mà không có chị…”. Ninh đã báo ngay với các đồng chí chỉ huy ở đây về sơ bộ lai lịch của mình. Vì thế từ mới biết Ninh là người của Mặt trận dân tộc giải phóng, khi biết thêm Ninh còn là đảng viên Đảng Cộng sản đã được gài trong quân ngụy từ 12 năm nay, hai đồng chí chỉ huy đơn vị ở đây cùng siết chặt tay anh. Ninh cùng hai anh đi kiểm tra lại đội ngũ, bố trí cho tiểu đoàn sẵn sàng đối phó nếu địch phản kích. Có điều Ninh lệnh cho cả tiểu đoàn bỏ súng vào từng nơi quy định để nộp cho Cách mạng, nhưng riêng anh vô tình đã quên làm việc đó do thói quen vẫn mang khẩu Col bên mình. Với nguyên quân phục và chiếc lon thiếu tá quân đội Sài Gòn, Ninh tự nhiên sóng bước đi bên hai cán bộ của Quân giải phóng trước mặt cả sĩ quan, binh lính tiểu đoàn mình và cả cán bộ, chiến sĩ quân đội cách mạng, nhưng cũng lạ là không hề có ai tỏ ra phản ứng. Chẳng ai để ý đến chuyện đó khi Ninh đã dẫn được cả một tiểu đoàn còn nguyên vẹn về với cách mạng, với nhân dân. Mặc nhiên, tất cả đã coi Ninh là người của đằng mình.

Người Ninh cứ lâng lâng trong tình cảm của “con đã được về với mẹ”. Làm xong việc kiểm tra đó, Ninh mời cả tiểu đoàn phó cùng báo cáo lại chi tiết về tình hình bố trí quân của Sư đoàn 25 và khu chiến thuật 31, trong đó mô tả rất kỹ bằng cả sơ đồ về căn cứ Đồng Dù với Ban chỉ huy của quân Giải phóng. Cũng không quên làm ngay việc thu âm lời kêu gọi sĩ quan và binh sĩ ngụy rã ngũ và dùng máy truyền tin liên lạc trực tiếp với cấp chỉ huy thuộc Sư đoàn 25 cùng tiểu khu Hậu Nghĩa kêu gọi họ cùng hưởng ứng phản chiến, rã ngũ, kéo quân ra với Quân giải phóng như tiểu đoàn mình.

Tới lúc nghe lời kêu gọi cùng “Phản chiến rã ngũ” này của Ninh, tức là sau 2 giờ kể từ lúc tiểu đoàn 1 của Ninh rời khỏi Trảng Bàng, Bộ tư lệnh Sư đoàn 25 mới biết tiểu đoàn Ninh đã phản chiến. Chúng không còn lực lượng để phản kích bằng bộ binh hay máy bay, thiết giáp mà chỉ sử dụng pháo binh nã đạn suốt mấy giờ liền vào khu vực nghi ngờ tiểu đoàn đang trú quân. Qua trận pháo kích này, được tận mắt chứng kiến lần nữa, Ninh và anh em binh sĩ của tiểu đoàn anh lại rất cảm kích, xúc động. Biết rằng: đây là những con em của mình đã thấy lỗi lầm vừa “trở về với mẹ” nên khi những trái pháo đầu vừa nổ, bà con kể cả các em thiếu nhi ở đây đã dắt tay, chỉ chỗ, nhường hầm trú ẩn cho tất cả anh em vừa phản chiến. Dứt pháo, thấy một số cô bác đã vì nhường hầm cho mình mà bị thương, những người lính của tiểu đoàn anh đã không chỉ cảm phục, xúc động mà trong ánh mắt họ còn biểu lộ rõ cả sự xót xa ân hận về những lỗi lầm đã qua với nhân dân.

Họ cũng mang tình cảm và tâm tư ấy khi được đồng bào xã An Tinh mang quà ra biếu lúc tiểu đoàn di chuyển đi qua và khi được huyện ủy và ủy ban cách mạng huyện Trảng Bàng dù bộn bề bao việc cũng tổ chức gặp mặt và làm cơm thiết đãi cả tiểu đoàn.

Từ sau trận bị pháo kích tới lúc này, Ninh lại càng thấm thía thấy công tác binh vận của Đảng mình đã thực sự thấm sâu trong nhân dân. Mình chỉ là hạt cát trong bãi sa mạc này. Còn anh em binh sĩ trong tiểu đoàn 1 của anh trong những giờ phút xúc động mà cả đời họ chưa có được ấy, họ lại nhìn anh với ánh mắt đầy niềm kính phục biết ơn. Không có Ninh dẫn đường làm “Ngọn cờ binh biến” họ đâu có được hưởng sự ưu ái từ lòng đại lượng này. Điều chắc chắn không ít người trong số họ sẽ vùi xác ở cửa ngõ Sài Gòn để là những tên lính phản dân hiến thân cuối cùng cho chế độ Cộng hòa bán nước mà chỉ hai ngày sau đó đã phải sụp đổ hoàn toàn trước bão táp và sức mạnh của quân dân cả nước.

Với Lê Quang Ninh, bên cạnh phần thưởng cao quý là những tấm Huân chương được Nhà nước tặng thưởng, chính những ánh mắt ấy cũng là một phần thưởng ghi dấu ấn đẹp mãi trong đời anh.

Sau bao ngày đêm căng thẳng tính toán để hoàn thành được “nhiệm vụ cụ thể” mà chị Tư Nhẫn đã thay mặt tổ chức trao cho, đêm 28 tháng 4 hôm ấy trên chiếc giường tre của một nhà dân trong vùng vừa được giải phóng, Ninh đã ngủ được một giấc ngon lành.

Cũng trong thời điểm này ở thị trấn Trảng Bàng, Thiếu tá Phong, người bạn Ninh mới hiệp đồng hành quân ban sáng đang gào to rát cổ trong máy bộ đàm vẫn không cản được cả thiết đoàn đang chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Khi tiểu đoàn 1 của Ninh đã ly khai tới gặp quân Giải phóng, thiết đoàn của Phong không có bộ binh tháp tùng đã giống như cua gãy càng. Lại biết tiểu đoàn 1 bảo vệ mình đã phản chiến, thế là cả thiết đoàn lợi dụng bóng đêm đã nhằm hướng Sài Gòn băng đồng mà chạy. Mạnh ai nấy chạy, không còn đội hình, không ai chỉ huy ai. Một số xe bị bắn cháy, số khác bỏ lại dọc đường. Số còn lại về tới cầu Bông bị quân giải phóng chốt chặn, cả đoàn bỏ xe chạy lấy người. Thế là cả thiết đoàn với hơn 30 xe tăng và thiết giáp đã tan rã ngay đêm hôm đó. Ý đồ chiến thuật của Lý Tòng Bá là rút lực lượng mạnh gồm thiết đoàn 10 và tiểu đoàn 1 của Ninh về làm vành đai thép cố thủ căn cứ Đồng Dù Củ Chi để án ngự ngăn chặn quân Giải phóng tiến đánh Sài Gòn từ hướng tây bắc này cũng đã thất bại tan rã ngay từ đêm 28 tháng 4. Không riêng thiết đoàn 10. Đang lung lay ý chí, hoảng loạn tinh thần, bởi đã nhìn thấy rõ thất bại của quân lực Cộng hòa là vô phương cứu vãn lại nghe thấy lời kêu gọi “ly khai, tự cứu lấy mình” của Lê Quang Ninh và các sĩ quan tiểu đoàn 1, tinh thần và ý chí chiến đấu của ngụy quân càng thêm nhanh rã rời, sụp đổ. Thêm đòn tác động tâm lý đó, ngay từ đêm 28 tháng 4 này, khắp các đơn vị nhất là ở Sư đoàn 25 và các đơn vị phòng thủ Sài Gòn đều diễn ra cảnh tượng của bầy vịt bắt đầu tan đàn. Từng tốp nhỏ và riêng rẽ cá nhân, rất nhiều binh sĩ và cả sĩ quan đã lặng lẽ trút bỏ súng đạn, quân phục, rời khỏi hàng ngũ ngụy quân để tìm con đường sống cho mình. Tác động của tiểu đoàn Lê Quang Ninh đã đúng như một “trái bom” nổ trong lòng quân ngụy trước lúc Đại quân ta đồng loạt nổ súng Tổng công kích giải phóng Sài Gòn.

Trong giấc ngủ dài và ngon lành đêm 28 tháng 4 này, Lê Quang Ninh đã không mơ thấy cảnh Lý Tòng Bá bị “chặt tay” ấy. Cũng không mơ thấy cảnh quân ngụy như bầy vịt bắt đầu tan đàn này. Anh lại mơ thấy cảnh cả nhà mình, từ chị Bạch, người đã cùng má chủ trì cuộc họp gia đình để Ninh vào làm nội tuyến đến Loan và các con rồi anh Phát, anh Lộc, các anh chị, các em, các cháu… đã chạy ùa ra tận bến sông mừng mừng tủi tủi ôm choàng lấy anh. Anh mơ thấy mình thong thả đi bên hàng dừa ven sông ở quê hương trong những ánh mắt trìu mến thân thương của bà con làng xóm khi đã biết rõ mình là ai. Mơ thấy mình đang đứng trước bàn thờ má, với hai hàng nước mắt: “Má ơi! Sao má không còn sống được đến hôm nay để thấy được bao công lao của má với đứa con trai của mình nay đã trở thành hiện thực!”.

Đâu còn phải trong mơ nữa. Những cảnh tượng ấy chỉ sau đêm 28 tháng 4 đó mấy hôm đã là sự thật đối với Ninh. Sự thật cho đến cả hôm nay, anh nhòa nước mắt đứng trước bàn thờ của má anh khi má đã được Nhà nước ta tuyên dương danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

HÀ BÌNH NHƯỠNG